Tháp Yang Prong được người Chăm xây dựng
ở Đăk Lăk từ thế kỷ XVIII. Sau đó người Chăm vắng bóng trên mảnh đất này. Hiện
tượng được gọi là “xâm thực văn hóa” bắt đầu. Cư dân địa phương (người Mnông, Ê
Đê, phần đông là Gia Rai, gần đây là người Kinh) đặt niềm tin và hành lễ tại
tháp theo kiểu riêng của mình. Bản chất tín ngưỡng Chăm hầu như không còn nữa.
Sự xâm thực văn hóa có cả mặt tích cực và tiêu cực. Cần phát huy mặt tích cực để
duy trì “sự sống” của tháp.
Tháp Yang Prong là di tích kiến trúc tôn
giáo của người Chăm. Sự hiện diện của tháp Chăm trên cao nguyên Đăk Lăk gợi ra
cho các nhà nghiên cứu lịch sử, dân tộc học, khảo cổ học những kiến giải khác
nhau. Tại tháp Yang Prong, nhiều năm trở lại đây, đang diễn ra một hiện tượng,
gọi là sự xâm thực văn hóa.
Quá trình này đang diễn ra một cách tự nhiên và chậm chạp.
1. Giới thiệu về tháp Yang Prong
Tháp Yang Prong hiện tọa lạc trong một
cánh rừng thưa, gồm những cây cổ thụ (cây săng lẻ), thuộc địa phận xã Ea Rok,
huyện Ea Sup, tỉnh Đăk Lăk. Nhìn trên bản đồ, tháp nằm ở phía tây tỉnh Đăk Lăk,
gần biên giới Việt Nam – Campuchia. Cánh rừng thưa, nơi tọa lạc của tháp, nằm
trải dài bên bờ sông Ea Hleo, quanh năm đầy nước, tạo nên một khung cảnh thiên
nhiên đẹp đẽ, thoáng đãng, màu xanh cây lá quanh tháp phủ dày suốt bốn mùa.
Tháp cao 9m, hình búp hoa, nền hình
vuông, mỗi chiều 5m, được xây bằng gạch nung đỏ, không có mạch vữa, chỉ có một
cửa ra vào duy nhất ở mặt phía đông (phía mặt trời mọc), ba mặt còn lại là cửa
giả. Cửa ra vào rộng 1,06m, trên có phiến đá làm lanh tô. Xung quanh tháp được
lát bằng gạch và đá xanh. Trong tháp không trang trí gì và không có tượng thờ.
Căn cứ vào tài liệu khảo cổ học, tháp được
xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ thứ XIII, tương ứng với triều đại vua Chăm lúc
đó là Jaya Sinhavarman III, tương ứng với triều đại nhà Trần của nước Đại Việt ở
phía bắc. Tháp Chăm đương nhiên do người Chăm xây dựng, nhưng về những sự kiện
lịch sử gắn với việc xây dựng tháp thì đang còn tồn tại các giả thuyết khác
nhau.
Sau đây, chúng tôi nêu các giả thuyết được
đề cập tới trong hồ sơ di tích của Bảo tàng tỉnh Đăk Lăk được soạn thảo vào năm
1990:
- Cuộc chiến tranh giữa Chiêm Thành và
Chân Lạp đã diễn ra vào khoảng nửa đầu thế kỷ XII với những cuộc giao tranh ác
liệt. Cuộc chiến tranh mở rộng lên vùng rừng núi Tây Nguyên. Người Chăm đã chiến
thắng và thống trị vùng đất Tây Nguyên. Sự có mặt của người Chăm ở Tây Nguyên
là hệ quả của cuộc chiến tranh này và họ đã xây dựng nên tháp Yang Prong.
- Vào cuối thế kỷ XIII, quân Nguyên-Mông
xâm lược Chiêm Thành, người Chăm phải di tản lên vùng rừng núi phía tây, trong
đó có Tây Nguyên để lánh nạn.
- Do giao lưu kinh tế (trao đổi sản vật
giữa đồng bằng và Tây Nguyên) diễn ra từ thế kỷ thứ V, người Chăm di cư tự
nhiên đến Tây Nguyên.
Sự có mặt của người Chăm ở Tây Nguyên được
minh chứng không chỉ bởi tháp Yang Prong mà còn bởi một số phế tích khác trong
các lưu vực sông Sê San và sông Ba.
Hiện nay, không có người Chăm ở Tây
Nguyên. Sự biến mất của người Chăm ở đây đang là một điều khó hiểu, khiến các
nhà chuyên môn chỉ có thể nêu giả thuyết mà thôi. Theo hồ sơ di tích của Bảo
tàng tỉnh Đăk Lăk, có ba giả thuyết được đặt ra:
- Người Chăm không hòa hợp được với cư
dân Tây Nguyên (có thể họ luôn bị coi là những kẻ xâm lược).
- Khí hậu và các điều kiện canh tác vùng
núi không phù hợp với người Chăm là cư dân ven biển.
- Các cuộc chiến tranh phong kiến làm
cho Tây Nguyên không còn là nơi cư trú an toàn.
Trong tình trạng thiếu chủ nhân văn hóa,
tháp Yang Prong đã trở thành phế tích. Và ở đây, hiện tượng xâm thực văn hóa đã
diễn ra.
2. Quá trình xâm thực văn hóa
Cư dân bản địa quanh vùng tháp, phần
đông là người Gia rai, sau đó là Ê đê và một số ít là Mnông. Họ đều gọi tháp bằng
cụm từ Yang Prong tức Thần Lớn (tiếng Ê Đê: Yang nghĩa là thần; Prong nghĩa là
lớn). Trong hàm nghĩa này, có lẽ là thờ vị thần tối cao. Người Chăm thường thờ
thần Shiva trong các tháp của mình và coi đó là vị thần tối cao. Theo Ấn Độ
giáo, Shiva hợp với Brahma và Vishnu trong bộ tam thần tối cao, tượng trưng cho
quyền lực vô biên. Cũng có giả thuyết cho rằng, tháp được xây dựng bởi nhà vua
Chăm Pa lúc đó là Jaya Sinhavarman III (tức Chế Mân, chồng của công chúa Huyền
Trân) và cụm từ Thần Lớn gắn với tên tuổi của ông (2, tr. 27). Tuy nhiên, người
dân bản địa sau này không hề biết đến tên các vị thần trong tín ngưỡng của người
Chăm Pa
và tên tuổi của vua Jaya Sinhavarman III. Họ chỉ biết đây là thần lớn, linh
thiêng, cần được thờ phụng. Vì thế có sự sai lạc trong cách hiểu về vị thần được
thờ ở tháp và họ đã dựng nên truyền thuyết về vị thần này như sau:
Có hai vợ chồng nhà kia. Người vợ đến kỳ
sinh nở. Người chồng chạy đi tìm bà đỡ. Khi bà đỡ bắt tay vào việc thì bỗng
nhiên trên không trung xuất hiện một cánh diều. Tiếng sáo diều réo rắt, véo von
làm chim rừng thôi hót, cây thôi xào xạc. Bà đỡ quên bẵng công việc đang làm để
nghe tiếng sáo diều. Vì thế em bé không chào đời và người mẹ trẻ cũng chết. Người
chồng cũng mải nghe tiếng sáo, giật mình nhìn lại, thấy cảnh tượng hãi hùng, liền
cầm gươm chém đứt đầu bà đỡ. Ba người đều chết oan, hóa đá. Dân trong vùng gọi
hai mẹ con sản phụ là Yang Prong. Câu chuyên xảy ra ở chỗ tháp Chăm bây giờ.
Dân trong vùng đều đến cúng Yang Prong, rượu cúng chảy thành suối. Ở xã Ea Rok
bây giờ vẫn còn một cái ao, gọi là ao đổ bã rượu. (1, tr. 1-2)
Cũng có thể truyền thuyết này gắn với một
ngôi đền thờ khác gần tháp nhưng đã bị phá huỷ hoàn toàn và chuyển thành lời giải
thích về sự sinh tồn của tháp Yang Prong.
Như vậy, năm tháng trôi đi, khi chủ nhân
văn hóa của tháp Chăm không còn nữa, tín ngưỡng bản địa đã xâm nhập vào di tích
này như là một hiện tượng tự nhiên và tất yếu. Có một điểm chung giữa người
Chăm khi xưa và người bản địa sau này là tính thiêng của tháp (tức tính thiêng
của vị thần, linh hồn của tháp). Vì sự linh thiêng, vị thần trong tháp được tôn
sùng. Đây là một hằng số không đổi giữa các tín ngưỡng khác nhau (không kể tín
ngưỡng đa thần hay nhất thần). Trong trường hợp này, sự linh thiêng chỉ là biểu
hiện bên ngoài. Cái gốc của sự linh thiêng (vị thần chủ được thờ) đã bị biến đổi
bởi người dân bản địa. Với tín ngưỡng đa thần, người dân bản địa đã sáng tạo ra
một nội dung mới (nguồn gốc vị thần) trong một hình thức cũ (tháp Chăm). Đó là
sự thay thế tự nhiên, hậu quả của sự biến mất chủ nhân văn hóa và tín ngưỡng của
họ. Giả sử người Chăm vẫn còn sống ở khu vực gần tháp, những sinh hoạt tôn giáo
tín ngưỡng của họ vẫn được duy trì trong tháp thì tình hình trên sẽ không xảy
ra. Vì vậy ở đây không có sự xung đột văn hóa, không có sự loại trừ văn hóa này
đối với văn hóa khác bởi cư dân bản địa. Dường như đây là một sự bù đắp cho những
thiếu hụt văn hóa diễn ra một cách tự phát trong đời sống thường nhật. Hiện tượng
trên cũng chứng tỏ sự tôn sùng của người dân bản địa đối với tháp Chăm. Họ
không muốn phá huỷ nó mà muốn duy trì sức sống lâu bền của nó bằng cách thổi
vào đó một sự linh thiêng có nguồn gốc bản địa. Sự chiếm lĩnh thiết chế này thể
hiện tính tích cực của người dân địa phương trong quá trình giao lưu văn hóa với
Chăm Pa.
Sự xâm thực văn hóa đối với tháp Yang
Prong không chỉ dừng lại ở sự thờ cúng của người dân bản địa mà còn tiếp tục diễn
ra bởi người Kinh (Việt) di cư từ nhiều vùng miền của đất nước đến các khu định
cư gần tháp. Năm 1977, lâm trường Rừng Xanh được thành lập, nhiều công nhân từ
các vùng xuôi lên lập nghiệp, đến nay, con cháu họ đã mấy đời trở thành cư dân ở
đây. Những cuộc di cư lẻ tẻ của người Kinh đến nơi đây cũng đã diễn ra trong suốt
hơn 30 năm qua.
Hiện nay đến tháp, chúng ta được chứng
kiến sự thành tâm cầu nguyện của người Kinh trước tháp Yang Prong. Nhiều bát
hương được đặt tuỳ tiện ở cạnh tháp và trên những tảng đá trước cửa tháp, chỉ
có người Kinh mới thắp hương khi lễ bái, điều này không giống với các cư dân bản
địa. Người Kinh cũng nhận thức được sự linh thiêng của thần chủ trong tháp. Họ
đến cầu nguyện như đối với các đền, miếu dưới xuôi (cầu tài, cầu lộc, cầu con
cái, cầu tai qua nạn khỏi, cầu sức khoẻ, cầu danh vị v.v…). Người Kinh mang tín
ngưỡng đa thần. Đặc điểm của người Kinh là mang tính cởi mở về văn hóa. Họ
không áp đặt vị thần chủ của mình vào thiết chế dân tộc khác mà chấp nhận vị thần
sẵn có trong thiết chế đó và coi như vị thần của chính mình. Người Kinh không
sáng tạo ra một truyền thuyết mới nhằm giải thích nguồn gốc vị thần trong tháp
Yang Prong theo quan niệm của mình có thể vì họ đến định cư muộn, thời gian
sinh sống chưa đủ để tạo nên bề dày của một lớp văn hóa mới. Tuy nhiên, hình thức
phụng thờ ở tháp (với những bát hương và chân hương) rõ ràng đã mang bản sắc Việt.
Chúng tôi gọi đây là sự xâm thực văn hóa lần thứ hai. Sự xâm thực lần thứ nhất
không làm thay đổi hình hài của tháp nhưng sự xâm thực lần thứ hai bắt đầu làm
cho tháp có những dấu hiệu thay đổi bên ngoài. Ở đây, ta thấy rất rõ sự thận trọng
của người Kinh khi tiếp cận văn hóa Chăm. Họ không đặt bát hương trong lòng
tháp vì còn e dè đối với sự chấp nhận của thần chủ. Sự tôn vinh thần chủ (cũ)
là nguyên nhân của thái độ này. Như vậy, ở đây cũng không có sự xung đột văn
hóa. Tuy nhiên tính chất của sự xâm thực lần này (của người Kinh) không giống với
lần trước (của cư dân bản địa) bởi họ chỉ đến cầu nguyện theo cách thức của
mình. Nhưng sự thay đổi của hình thức cầu nguyện cũng rất quan trọng. Sự hiện hữu
của nhiều bát hương, lâu ngày sẽ dần dần biến tháp Chăm thành ngôi đền thờ Việt.
Điều này tất yếu sẽ xảy ra nếu không có sự ngăn cản của những người làm công
tác quản lý di tích.
3. Những vấn đề lý luận rút ra từ thực tế
trên về sự xâm thực văn hóa
Khái niệm xâm thực văn hóa dễ làm người
ta nhầm lẫn với xâm lăng văn hóa hay sự đồng hóa về văn hóa. Xâm lăng (hay xâm
lược) văn hóa thường gắn liền với ý đồ chính trị của một quốc gia này đối với một
quốc gia khác (hoặc của một tộc người này đối với một tộc người khác). Đó là sự
áp đặt văn hóa (hay cưỡng bức văn hóa) của một quốc gia (tộc người) mạnh đối với
một quốc gia (tộc người) yếu về tiềm lực kinh tế hay quân sự. Sự tiếp nhận văn
hóa trong trường hợp này trở thành bắt buộc và vì thế thường nảy sinh sự xung đột
văn hóa. Những dân tộc yếu thường phải chống đỡ rất vất vả với làn sóng xâm
lăng văn hóa này để bảo vệ bản sắc văn hóa của mình.
Xâm thực văn hóa không phải như vậy. Đó
là một biểu hiện của quá trình giao lưu văn hóa tự nhiên. Như vậy giao lưu văn
hóa tự nhiên không chỉ đơn thuần là sự trao đổi văn hóa giữa hai hay nhiều quốc
gia, dân tộc phần lớn thông qua quá trình truyền bá và tiếp nhận. Biểu hiện của
giao lưu văn hóa tự nhiên,
trong những trường hợp cụ thể cũng hết sức phức tạp. Xâm thực văn hóa chỉ là một
trong những biểu hiện phức tạp đó. Về cơ bản, xâm thực văn hóa có thể định
nghĩa như sau:
Xâm thực văn hóa là sự chiếm lĩnh trên
cơ sở tôn trọng một thực thể văn hóa của dân tộc khác bằng cách dùng văn hóa của cư
dân sở tại để bù đắp những thiếu hụt của thực thể văn hóa ấy, làm cho nó hồi
sinh hoặc tiếp thêm cho nó một sức sống lâu bền.
Có thể hiểu định nghĩa này theo một số nội
dung dưới đây:
- Là
sự chiếm lĩnh một thực thể văn hóa của dân tộc khác: Sự chiếm lĩnh không hiểu
theo nghĩa tước đoạt hay chiếm đoạt mà hiểu theo nghĩa là một quá trình tiếp cận
dần dần để cư dân sở tại phủ một lớp văn hóa của dân tộc mình lên một thực thể
văn hóa của dân tộc khác. Quá trình này diễn ra một cách chậm chạp, tự nhiên và
tự phát, không theo một sự chỉ đạo nào từ phía tổ chức hoặc cá nhân, nghĩa là
không xuất phát từ một ý đồ chiếm lĩnh ban đầu. Đối với tháp Yang Prong, người
dân sở tại đã tiếp cận tháp trong một thời gian rất lâu dài, bắt đầu từ sự giải
thích nguồn gốc hình thành tháp bằng huyền thoại, sau đó là sự thờ cúng bằng
tín ngưỡng dân gian của mình. Ngay cả cư dân người Kinh cho đến nay cũng chỉ mới
tiếp cận phía ngoài tháp, chưa “chiếm lĩnh” được phần bên trong tháp.
- Sự
chiếm lĩnh diễn ra trên cơ
sở tôn trọng thực thể văn hóa của dân tộc khác: Đây là điều quan trọng nhất
trong quá trình xâm thực văn hóa. Nói như vậy có nghĩa rằng sự chiếm lĩnh không
dẫn đến tình trạng xoá bỏ hoặc phá huỷ thực thể văn hóa của dân tộc khác để
thay thế bằng cái của mình. Sự tôn trọng chính là nhằm bảo tồn thực thể văn hóa
của dân tộc khác một cách hữu hiệu và cũng là chấp nhận một sự tồn tại đa văn
hóa. Một dân tộc biết chấp nhận sự tồn tại đa văn hóa là một dân tộc thông
minh, biết tiếp nhận văn hóa từ bên ngoài để làm giàu cho văn hóa dân tộc mình.
Tháp Yang Prong được bảo vệ gần như tuyệt đối và có hiệu quả cao bằng những huyền
thoại về sự linh thiêng của Thần Lớn. Không ai dám đến lấy một viên gạch hay đá
hoặc chặt cây, ngay cả trong khu vực gần tháp, vì sợ sự trừng phạt của Thần. Đó
là sự tôn trọng bằng tâm linh (sự sùng bái, suy tôn).
- Dùng
văn hóa của cư dân sở tại để bù đắp những thiếu hụt của thực thể văn hóa ấy:
Đây là điều kiện của sự xâm thực văn hóa. Điều kiện thứ nhất: Thực thể văn hóa
của dân tộc khác phải đang tồn tại trên địa bàn cư trú của cư dân sở tại. Điều
kiện thứ hai: Phải có sự thiếu hụt của thực thể văn hóa của dân tộc khác về một
phương diện nào đó. Nếu thiếu hai điều kiện này thì sự xâm thực văn hóa sẽ
không xảy ra. Đối với tháp Yang Prong, sự thiếu hụt của thực thể văn hóa là vị
thần chủ gốc không được duy trì bằng thờ tự, lâu dần bị lãng quên. Người dân sở
tại phải bù đắp bằng vốn kiến thức và sự sáng tạo của chính mình.
- Làm
cho thực thể văn hóa đó hồi sinh hoặc được tiếp thêm một sức sống lâu bền:
Đây chính là vai trò và tác dụng tích cực của sự xâm thực văn hóa. Tháp Yang
Prong sẽ trở thành phế tích hoàn toàn và bị lãng quên, thậm chí đã bị phá huỷ nếu
không có sự xâm thực văn hóa diễn ra hàng trăm năm nay bởi các dân tộc Gia Rai,
Ê Đê, Mnông và sau này là dân tộc Kinh. Nếu không thực hiện được vai trò và tác
dụng tích cực này, sự chiếm lĩnh một thực thể văn hóa không thể gọi là xâm thực
mà là một biểu hiện suy đồi của giao lưu văn hóa.
Nhìn chung, sự xâm thực văn hóa là một
biểu hiện đặc biệt nhưng là biểu hiện tích cực của giao lưu văn hóa giữa các quốc
gia (dân tộc). Nó diễn ra như một quy luật. Việc bảo tồn một di tích văn hóa cổ
như tháp Yang Prong của người Chăm, chúng ta cần tính đến quy luật này. Nếu loại
bỏ nó (sự xâm thực văn hóa), tháp Yang Prong sẽ mất đi sức sống tinh thần, chỉ
còn đơn thuần là một phế tích, có thể dùng cho khách du lịch chiêm ngưỡng nhưng
không còn ý nghĩa đối với cư dân địa phương nữa.
Hiện nay, tháp Yang Prong đang được
ngành văn hóa tỉnh Đăk Lăk xây dựng đề án cho việc trùng tu, tôn tạo. Trong
tương lai, tháp sẽ trở thành điểm đến du lịch hấp dẫn trong tuyến du lịch cùng
với Bản Đôn và trở thành một trung tâm sinh hoạt văn hóa thường xuyên của các
dân tộc Gia Rai, Ê Đê, Mnông và Kinh. Quá trình xâm thực văn hóa vẫn tiếp tục
diễn ra với niềm tin tâm linh của người dân. Trong việc phát huy những mặt tích
cực và đẩy lùi những biểu
hiện tiêu cực của sự xâm thực này, các nhà quản lý văn hóa của địa phương nên
có những hướng dẫn cụ thể về việc thờ tự để không làm biến dạng vẻ đẹp bên
ngoài của tháp.
TRẦN ĐỨC NGÔN
Tài liệu tham khảo
1. Bảo tàng tỉnh Đăk Lăk, Lý
lịch di tích kiến trúc tôn giáo Chăm- tháp Yang Prong xã Ea Rok huyện Ea Sup (bản đánh máy chữ), 1990.
2. Nhiều tác giả, Đại
cương về các dân tộc Ê Đê, Mnông ở Đăk Lăk, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội,
1982.
3. Nguyễn Thanh Phước, Dấu
tích người Chăm cổ mới phát hiện ở huyện Krông Bông, Thông tin Khoa học kỹ
thuật (của Uỷ ban KHKT tỉnh Đăk Lăk), tháng 3- 1989.
No comments:
Post a Comment