Hát lượn là một loại
hình dân ca sinh hoạt rất phổ biến trong đời sống văn hóa của người Tày. Hát lượn
có những hình thức diễn xướng khác nhau. Người Tày ở xã Yên Cư, huyện Chợ Mới,
tỉnh Bắc Kạn có lượn Slương. Nội dung chủ yếu của lượn Slương có hát tự do và
hát theo lễ hội (thể thức). Theo
thể thức, lượn Slương có nhiều thể và được hát theo nhiều chặng. Giá trị văn
hóa của lượn Slương cần được bảo tồn và phát huy.
1. Khái niệm hát lượn và hát lượn Slương
Lượn là một loại
hình dân ca độc đáo của dân tộc Tày, nhưng đến nay vẫn chưa có được một định
nghĩa rõ ràng. Tuy nhiên, qua các công trình nghiên cứu của một số người đi trước, chúng tôi tập hợp được
những ý kiến sau:
Nhạc sĩ Đỗ Minh,
nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian, giải thích: Gọi “Lượn Slương ” vì nó là “tiếng
hát của tình thương”. Nhà nghiên cứu văn
học dân gian Vi Hồng viết: “…Slương nghĩa là thương”. Nhà dân tộc học Lã Văn Lô
nhận định: Slương là hát để “bày tỏ tâm tình của mình đối với người yêu…”. Nhà
dân tộc học Nguyễn Nam Tiến phân tích: “…gọi là Slương vì trong rất nhiều bài
lượn, đặc biệt là những câu đầu thường hay có từ Slương” thí dụ :
Thặt cằm Slương đuổi bạn tương tri
(Có lời với bạn tương tri)
Về “lượn Slương ”
nhân dân Tày còn có một tên gọi khác nữa là “lượn Lạng” vì rất phổ biến ở vùng
Lạng Sơn.
Trong cuốn “Sli Lượn,
dân ca trữ tình Tày Nùng”, Vi Hồng đã đưa ra nhận xét về nguồn gốc và ngữ nghĩa
của từ “Lượn ”. Tác giả đưa ra nhiều ý kiến giải thích khác nhau, nhưng đáng
chú ý là ý kiến của cụ Nông Văn Mô ở huyện Hòa An tỉnh Cao Bằng. Theo cụ Mô thì
“lượn” hay “vén” cùng có một nghĩa - xưa kia người Tày vẫn nói “lượn lục” hay
“vén lục” đều có nghĩa là “ru con”.
Lượn thường được hiểu
theo hai nghĩa hẹp và rộng khác nhau. Theo nghĩa rộng, lượn chỉ toàn bộ kho
tàng dân ca người Tày, bao gồm cả then (lượn then), hát đám cưới (lượn quan
làng), phuốc pác (lượn phuốc pác) và phong slư (lượn phong slư).
Theo
nghĩa hẹp, lượn chỉ những điệu hát giao duyên của người Tày. Cả hai cách hiểu đều
có lý, song có lẽ phổ biến hơn cả là cách gọi tên lượn theo nghĩa hẹp, tức là bộ
phận hát đối đáp giao duyên của người Tày. Theo cách hiểu này, lượn gồm 3 loại:
lượn Cọi, lượn Slương và lượn Nàng Hai. Nếu như lượn Cọi và lượn Nàng Hai có địa
bàn chính ở phía Tây vùng Việt Bắc thì lượn Slương lưu hành ở địa bàn Lạng Sơn
là chính. Khác với lượn Cọi là loại lượn sử dụng vần lưng để kéo dài khổ thơ,
lượn Slương chỉ dùng loại thất ngôn tứ tuyệt. Vào cuộc lượn Slương, sau những
bài hát mời của chủ bản, chỉ có một đôi trai gái hát đối đáp với nhau, các bài
hát được hát lên đều do nhớ nhập tâm hoặc ứng khẩu chứ không phải có thầy dẫn
như lượn Cọi.
Như vậy, lượn Slương là những bài hát giao
duyên lưu hành ở một vài địa phương nhất định, mang đặc điểm riêng về thể thơ
và lối hát.
Hát lượn
Slương có nhiều làn điệu,
thường là thể thơ thất ngôn, song cũng có khi là thơ tự do. Mỗi người cần phải
có một “vốn” lượn lớn để sẵn sàng ứng xử một cách “thông dòng bén giọt” mới
mong chiếm được cảm tình người mình muốn làm quen. Nếu lúng túng không đối đáp
được bằng câu hát, sẽ bị chê là ít hiểu biết, vụng về.
Trong một
buổi hát lượn, không thể thiếu phần "slương", tức là hát để bày tỏ
tâm tình của mình đối với người yêu. Thật ra, không phải lúc nào cứ lượn hát với
nhau là có thể yêu, tiến tới xây dựng gia đình. Tuy nhiên phải công nhận rằng
đó là những tiếng hát tâm tình, là khúc nhạc lòng của thanh niên nam nữ trong lứa
tuổi đầy hứa hẹn và khao khát yêu đương. Cho nên, không có gì đáng ngạc nhiên,
phần này hoàn toàn là những bài về tình yêu nam nữ, thể hiện lòng mong muốn được
yêu đương, mong có được mối tình chung thủy. Biết bao nhiêu lời nguyện ước, thề
thốt, thiết tha, tràn ngập lòng tin và hy vọng được hát lên với tất cả tâm hồn
say đắm của tuổi trẻ.
Hát lượn
Slương trong tình yêu giúp người Tày bộc bạch niềm tâm sự sâu kín. Nếu nói thẳng
với nhau e rằng khó hơn là dùng câu “lượn” để giãi bày. Tuy nó văn hoa thật,
nhưng cốt lõi vẫn hướng về cái mình muốn nói. Buổi đầu dùng “lượn” rất dễ làm
quen, đã yêu nhau rồi dùng “lượn” càng dễ dàng bày tỏ. Có những cuộc tình, từ
khi quen đến khi cưới, mỗi chàng trai, cô gái phải hát tới cả ngàn câu. Không
ai có thể thuộc sẵn cả ngàn câu nhưng lúc hát phải sáng tạo ra. Sáng tạo hay
thì được người yêu yêu nhiều hơn vì “anh là người có học cao, hiểu rộng, thông
minh...”, vì lẽ đó mà hát lượn Slương rất phong phú. Thế nhưng ở Yên Cư, Chợ Mới-
Bắc Kạn, các bài hát lượn Slương hầu như không được ghi chép lại nên đã bị mai
một dần.
Lượn Slương thường
được hát giữa một nam và một nữ hoặc giữa một tốp nam, một tốp nữ ngồi đối diện
nhau trên những chiếc mành tre, tấm cót đã được rải trước đó. Xung quanh có nhiều
người ở mọi lứa tuổi cùng nghe và góp vui
(bình luận, nhắc nhở, tán thưởng). Thời gian một cuộc lượn đầy đủ bắt đầu từ
đêm hôm trước đến gần buổi sáng hôm sau. Tuỳ theo nội dung, người Tày phân chia
lượn Slương thành nhiều thể. Khái niệm thể cũng co dãn, chưa thật nhất quán.
- Các thể
hát lượn Slương:
Lượn
Slương thường được tổ chức vào ngày hội lồng tồng (xuống đồng) của mùa xuân,
hay vào những đêm trăng sáng trong dịp nông nhàn. Theo những tài liệu sưu tầm
được, sơ bộ có thể chia lượn Slương thành 3 nhóm: lượn đi đường, lượn sử và lượn
chúc mừng. Trong đó phần lượn chúc mừng không phải là hát giao duyên, chỉ là lời
cảm tạ của người lượn với gia chủ nên có tính chất gắn kết khá lỏng lẻo với cuộc
lượn. Phần lượn sử với một thời gian khá lớn dành cho việc lượn về các truyện cổ
dân gian của người Tày và các tích truyện có nguồn gốc Trung Quốc, thể hiện chiều
sâu của cuộc lượn Slương khi tình cảm của người Tày đã hết sức sâu nặng. Nhưng
chính vì tính chất và nội dung của nó, lượn sử không có sức hút mạnh đối với
người nghe. Còn phần lượn đi đường là phần chứa đựng nhiều tình huống bất ngờ
nhất. Về mặt hình thức, đó là phút ban đầu thăm dò, tìm hiểu, làm quen, dỗi hờn,
trách móc. Về mặt nội dung, tình cảm được diễn tả từ nỗi nhớ thương kín đáo, e ấp
đến sâu sắc, mạnh bạo. Phần này được người nghe rất yêu thích và đây chính là
phần trọng tâm của cuộc lượn Slương. Không có một cuộc lượn Slương nào thiếu phần
này dù cho hai phần kia có thể không được lượn đến.
Trong lễ hội lồng tồng, người Tày thường
hát lượn Slương với 5 bài, gồm: Lựợn cầu mùa, Mời xiên lý và lượn chúc chồm,
Xiên lý lượn chúc lễ hội lồng tồng, Mời rượu, Xiên lý hay chủa bản lượn tiễn
vua về đền.
Trong các
cuộc hát giao duyên khác, người Tày chia lượn Slương thành 10 thể:
+ Thể lượn
mời: Người chủa bản (chủ bản) hát những khúc hát để mời người xiên lý (khách)
lượn với mình.
+ Thể lượn
khan: Người xiên lý hát những khúc hát đố và hỏi để người chủa bản trả lời.
+ Thể lượn
chập: Tức là lượn gặp, người xiên lý hát chính còn người chủa bản hát ngân theo.
+ Thể lượn
chào: Người chủa bản và xiên lý hát chào nhau.
+ Thể lượn
khuyên: Hát khuyên nhau để lượn lâu dài với nhau.
+ Thể lượn
chúc chồm: Người xiên lý hát chúc mừng người chủa bản.
+ Thể dạ:
Hát một kiểu khác không giống với các thể khác, hát hai câu một.
+ Thể kiết:
xiên lý hát trước nêu lên hoàn cảnh lượn như thế nào cho vừa lòng người chủa bản,
sau đó hai bên cam kết lượn với nhau lâu dài.
+ Thể lượn
tuổng: mang tính kể chuyện hoặc miêu tả thời tiết, thiên nhiên, lao động sản xuất
+ Thể lượn
nhắn nhau: xiên lý và chủa bản sẽ hát những khúc hát nhắn nhau và hẹn gặp lại
nhau.
- Các chặng hát lượn
Slương
Tiến trình của hình
thức giao duyên trong lượn
Slương gồm 3 chặng
chính:
+ Chặng thứ 1: Nhằm
mục đích mời (nài), chúc mừng, chào nhau:
Trước khi “lượn
nài”, (mời nhau hát), thanh niên trong bản cất tiếng hát xin phép chủ nhà mặc
dù chủ nhà đã đồng ý từ trước, thậm chí còn mong muốn tổ chức “lượn”:
Thặt căm tê xam cạ
chủ rườn (Cất tiếng xin thưa với chủ nhà
Khách lạ mà nẩy tự
viện phương Có
phải đến đây khách từ xa
Slậy tử xo trình
sle lẩy hỉn Sĩ
tử xin trình, mong hội ngộ
Xả cạ khách lạ, slậy
xo slương Sĩ
tử xin chào được vui xuân).
Sau đó mới cất tiếng
lượn “nài” (mời) khách:
Ở bài khai khẩu ước
chào xuân (Mở
bài khai khẩu ước chào xuân
Tiểng cạ duyên phần
mì hải ân Đồn
rằng chốn ấy đầy hải ân
Tiểng cạ duyên cần
mì duyên sắc Đồn
rằng chốn ấy đầy duyên sắc
Slậy tử xo chào, lỉn
slắc xuân. Sĩ tử xin chào được vui xuân).
Để thành cặp lượn với
nhau, người được “lượn nài” phải lượn đáp lại để cảm ơn và để thành cặp lượn
giao duyên (cốc lượn).
Sau khi đã thành cặp
lượn rồi thì bên “xiên lý” (khách) chủ động hát thể lượn khan, thể này mang
tính đố, hỏi cho người “chủa bản” (chủ nhà) trả lời, giải đáp.
Sau khi hát vài khổ
rồi, người xiên lý trong cặp này phải hát theo quy trình tuần tự (lượn lễ) hết
các thể sau:
Chập căn (gặp
nhau):
Giáp ất lai hè từ cổ
truyền (Giáp ất chu kỳ thời gian xưa
Tình cờ pây lín chập
đào thiên Tình
cờ đi chơi gặp cùng cảnh
Ngộ nhị tình cờ
chăng đáy chập Mỗi
lần tình cờ may được gặp
Khéo chập tỳ nấy dở
ca điên May
gặp chốn này chốn dở dang)
Chào căn (chào
nhau):
Phong phanh lồm
thoáng đông lao sao (Vèo
vèo gió thổi động lao sao
Bjóc phông thì xuân
tiết hộn hào Hoa nở mùa xuân tiết hỗn
hào
Thế thự nhân tình
long ao ước Tư
tưởng nhân tình lòng ao ước
Họp mặt củng căn rà
tạm chào. Họp
mặt cùng nhau ta tạm chào).
Khuyên căn (khuyên
nhau):
Túc quý lưu dài cảnh
liễu
tiên (Trúc quý lưu đài cảnh liễu tiên
Chập chào te đoạn
già khảm khuyên Gặp
chào đã rồi lượn tới khuyên
Cằm vỉ cửu tuyền
sle mại mại Câu
ví chín đời để mãi mãi
Chắc cạ cằm hây chập
ý tuyên. Biết
lượn lời nào gặp ý nên).
+ Chặng thứ 2: Là
phần ứng tác tại chỗ nhằm bày tỏ, trao đổi tình cảm với nhau bằng hình ảnh cỏ
cây hoa lá, so sánh ví von. Đây là chặng tiếp đãi, thi thố, tâm tình, ước nguyện
yêu đương. Chặng này dài nhất, chiếm hầu hết phần thời gian của một đêm “lượn”.
Tùy theo trình độ của đôi bên nam nữ mà có thể kéo dài từ một đến vài đêm…
Người xiên lý hát
thể “lượn dạ” rồi thể “chúc chồm”- chúc mừng. Nếu hát tại một gia đình thì hát
bài “chúc chồm rườn” để cảm ơn, chúc mừng gia đình đó. Sau thể “chúc chồm”, người
xiên lý hát sang thể “lượn kiết” để tỏ ý hai người cùng cam kết hát lượn hết
mình với nhau lâu dài. Bằng lối hát liền khúc, các khổ “lượn kiết” chủ yếu do
người chủa bản tìm chọn hoặc sáng tác để hát đối lại với các khổ thơ mà xiên lý
đã lượn trước.
Sau thể “lượn kiết”,
cặp lượn chuyển sang hát thể “lượn tuổng” - thể lượn mang tính kể chuyện hoặc
miêu tả thời tiết, thiên nhiên, lao động sản xuất. Khi hát tới thể “lượn tuổng”,
người ta chọn những bài ưa thích và hát liền khúc (nối tiếp nhau), mỗi người
hát một khổ thơ, hát hết bài thì chuyển sang bài khác.
Ở chặng này, nội
dung của bài lượn không phải là đối đáp mà là luân phiên nam nữ nối tiếp nhau
hát từng đoạn trong cùng một bài. Bên nào vì quên không hát nối tiếp được đúng,
bị coi như thua cuộc.
+ Chặng thứ 3: Nội
dung chủ yếu là giã từ, nhắn nhủ và hẹn hò, nói lên tình cảm quyến luyến giữa
đôi bên và hò hẹn gặp nhau trong cuộc hát lượn năm tới.
Bên “xiên lý” và “chủa bản” hát những khúc hát chào nhau. Mặc dù
chỉ có lời chào thôi nhưng ở trong lượn Slương, lại rất quan trọng. Đôi bên phải
chọn lời hát thật hay, thật tình cảm cho lời chào của mình.
Chào nhau chào cho đúng
Về nhà rồi đừng áy náy thương duyên
Chào nhau chào thật lâu
Về nhà khỏi mong theo với bạn nào
Chào nhau nhớ lời chào mãi
Lời chào để theo nhớ mọi ngày.
3. Các giai đoạn
phát triển của diễn xướng hát lượn Slương
Trong tiến trình lịch
sử, lượn Slương được phát triển qua hai giai đoạn chính: Giai đoạn nguyên sơ và
giai đoạn có thể thức, lề lối.
- Giai đoạn nguyên
sơ:
Những câu hát, cặp
hát (đối đáp) lẻ tẻ diễn ra trong một khoảnh khắc, một thời gian nhất định. Đó
là những câu, những bài hát không được chuẩn bị trước, không có nghi thức tổ chức.
Họ hát vào những dịp đêm trăng ở bản làng, trong lúc lao động, trong sinh hoạt
thường ngày. Chính bản thân những người hát đã góp phần vào việc sáng tạo vốn
dân ca. Ở đây hoạt động nghệ thuật vui chơi giải trí và môi trường lao động gắn
chặt với nhau. Đây là dạng thức nguyên hợp, cũng tồn tại khá phổ biến ở các thể
loại dân ca của các tộc người thiểu số khác. Hiện nay ở Yên Cư, hình thức hát
này về cơ bản đã không còn, có chăng chỉ ở những cuộc lượn trong ngày tết, đám
cưới, vào nhà mới nhưng cũng không phổ biến.
- Giai đoạn diễn xướng
có thể thức lề lối:
Hình thức này dần dần
tách rời khỏi thực tiễn công việc hàng ngày, song không vì vậy mà nó tách khỏi
cuộc sống, môi trường lao động. Trong giai đoạn này công tác chuẩn bị, cách thức
diễn xướng đều có bài bản thứ tự trước sau. Tuy nhiên vẫn còn hiện tượng ứng
tác. Trong ngày lễ hội, khách thường nghỉ lại bản làng. Một tốp thanh niên của
bản kéo đến nhà có khách trọ, hát những lời lượn nài mời khách tham gia cuộc lượn.
Khách có lời hát lại (lượn khan). Cuộc lượn ứng tác giữa đám thanh niên chủ bản
và tốp khách được bắt đầu. Đây là một hình thức tái tạo có ý thức không rập
khuôn theo những chuẩn mực của lề lối. Do vậy trong hát lượn của người Tày, lượn
Slương là phong phú nhất, có nhiều dị bản khác nhau và cuốn hút người nghe nhiều
nhất.
*
* *
Tóm lại, lượn
Slương là một bộ phận quan trọng trong kho tàng văn học nghệ thuật dân gian của
người Tày. Không những thế nó còn là nét đẹp văn hóa tiêu biểu của dân tộc Tày.
Lượn Sương là loại dân ca ở trình độ phát triển khá cao, được hát theo lề lối,
bài bản trong diễn xướng. Lượn Sương là một di sản văn hóa quý giá của dân tộc
Tày và của Việt Nam ,
cần được bảo tồn và phát huy trong cuộc sống đương đại.
Lê Thị Phương Thảo
Tài liệu tham khảo
1. Vi Hồng, Vài suy nghĩ về hát Quan lang,
Phong Slư, Lượn, Tạp chí văn
học số 3, 1976.
2. Vi Hồng, Sli lượn dân ca trữ tình Tày -
Nùng, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1979.
3. Cung Khắc Lược, Lê Bích Ngân, Lượn cọi Tày - Nùng, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1987.
4. Hoàng Văn Páo, Sưu tầm, biên dịch,
giới thiệu, Lượn Tày Lạng Sơn, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội,
2003.
5. Nguyễn Nam Tiến, Về lượn của người Tày, Tạp chí
dân tộc học, số 1, 1976.
6. Ma Văn Vịnh, Lượn Thương lễ hội lồng tồng di sản
văn hóa, chưa xuất bản.
No comments:
Post a Comment