Tỉnh Gia Lai trước ngày giải phóng được biết đến như
một chiến trường ác liệt, nơi đây những địa danh tên đất, tên người cũng đã đi
vào những trang sử hào hùng của dân tộc. Từ ngày giải phóng miền Nam thống nhất
đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, những quyết sách của Đảng và Nhà
nước về Tây Nguyên là đòn bẩy quan trọng giúp cho sự phát triển của tỉnh Gia
Lai.
Những ngày đầu sau giải phóng,
Gia Lai bị chiến tranh tàn phá nặng nề, xuất phát điểm rất thấp, cơ sở hạ tầng
hầu như chưa có gì, dân cư một phần sống tập trung ở các trung tâm huyện, thị
xã, số còn lại sống rải rác ở vùng cao, vùng sâu, vùng biên giới, đời sống
thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần.
Từ một nền nông nghiệp lạc hậu,
tự túc, tự cấp, năng suất thấp, đến nay đã hình thành các vùng sản xuất tập
trung chuyên canh cây công nghiệp ngắn và dài ngày như: Cao su 76.450 ha, cà
phê 76.600 ha, tiêu gần 5.000 ha, điều 20.260 ha, chè 1.154 ha; bắp 57.000 ha,
mì 56.350 ha, mía 20.000 ha và gần 31.000 ha rau, đậu đỗ các loại; đã tạo ra
trên 495.000 tấn lương thực, 68.000 tấn mủ cao su, 140.000 tấn cà phê nhân,
10.560 tấn điều nhân, 21.700 tấn tiêu, 5.400 tấn chè (búp tươi)… là nguồn
nguyên liệu để phát triển công nghiệp chế biến... Hiện nay, tỉnh đang triển
khai kế hoạch trồng cao su trên đất lâm nghiệp gắn với giải quyết việc làm,
phấn đấu đến năm 2015 sẽ có 125.000 ha cao su; đàn gia súc gia cầm tăng nhanh,
hiện đàn bò có khoảng 336.500 con (bò lai chiếm 35%), đàn heo có 353.700 con.
Là vùng đất giàu tài nguyên,
trong 35 năm qua, tỉnh đã bảo vệ và phát triển có hiệu quả tài nguyên rừng,
khoáng sản, hệ thống sông suối gắn với bảo đảm cân bằng môi trường sinh thái.
Sản xuất công nghiệp phát triển
nhanh, với nhiều cơ sở sản xuất, nhà máy được đầu tư xây dựng như: Thủy điện,
vật liệu xây dựng, công nghiệp khai thác khoáng sản, chế biến nông-lâm sản, tạo
ra nhiều sản phẩm có giá trị kinh tế cao, có thị trường xuất khẩu. Đã hình thành
một số khu-cụm công nghiệp với quy mô nhỏ, làm cơ sở để chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, cơ cấu lao động của tỉnh.
Các ngành dịch vụ thương mại,
tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, vận tải, tư vấn... phát
triển cả về cơ sở vật chất và chất lượng phục vụ, hệ thống phân phối hàng hóa,
giao thông, thông tin liên lạc thông suốt từ trung tâm thành phố, thị xã đến
tận vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Năm 2009, tỉnh và ngành chức năng đã
chính thức mở đường bay thẳng Hà Nội-Pleiku-Hà Nội và tăng tần suất bay đi Đà
Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh; hoạt động xuất khẩu ngày càng được đẩy mạnh, một
số sản phẩm của tỉnh đã có mặt trên thị trường trong nước và quốc tế. Từ một
tỉnh gần như nhận trợ cấp hoàn toàn từ Trung ương, đến nay đã tự cân đối được
50% ngân sách trên địa bàn. Năm 2009 thu ngân sách đạt gần 2.000 tỉ đồng.
Gia Lai có 17 đơn vị hành chính
trực thuộc, gồm Thành phố Pleiku (đô thị loại II), 2 thị xã, 14 huyện và 222
đơn vị hành chính cấp xã với rất nhiều công trình mới được xây dựng, bộ mặt của
thành thị và nông thôn ngày một đổi mới. Các tuyến đường từ tỉnh xuống huyện,
thị xã đã được đầu tư xây dựng, đường giao thông nông thôn từng bước được bê
tông hóa và nhựa hóa. 100% số xã có đường ô tô đến trung tâm. Tất cả các xã và
hầu hết các thôn, làng, tổ dân phố đều có điện lưới quốc gia với 95% số hộ được
sử dụng điện. 80% số hộ ở nông thôn được dùng nước sạch. 95% xã có báo đến
trong ngày. Bình quân 74,6 máy điện thoại/100 dân (cố định và di động).
Cơ chế, chính sách và môi
trường thu hút đầu tư của tỉnh ngày càng cải thiện. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh
có trên 2.700 doanh nghiệp đang hoạt động với tổng vốn đăng ký trên 12.000 tỉ
đồng. Cửa khẩu Quốc tế Lệ Thanh đã được đầu tư xây dựng, cùng với việc hình
thành khu vực Tam giác phát triển giữa 3 nước Việt Nam-Lào-Campuchia, khánh
thành đường 78-Campuchia sẽ tạo điều kiện thuận lợi để khu vực cửa khẩu phát
triển nhanh, Thành phố Pleiku sẽ trở thành tâm điểm của khu vực.
Song song với việc đẩy mạnh
phát triển kinh tế, các lĩnh vực văn hóa xã hội cũng đạt được những thành tựu
quan trọng. Đến nay, tỉnh không còn hộ đói kinh niên, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn
14,32%; đời sống của đồng bào các dân tộc và nhân dân vùng căn cứ cách mạng
luôn được quan tâm. Đại hội Đại đoàn kết các dân tộc thiểu số Tây Nguyên lần thứ
nhất được tổ chức tại Gia Lai và Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số của tỉnh
thành công đã khẳng định tinh thần đại đoàn kết của nhân dân các dân tộc trong
tỉnh. Công tác đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, gia
đình có công với nước được cả cộng đồng quan tâm.
Đời sống tinh thần và trình độ
dân trí của người dân được nâng cao, các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước
được thực hiện có hiệu quả. Đến nay, 100% xã đã phủ sóng phát thanh, 95% xã phủ
sóng truyền hình; 100% hộ được nghe đài phát thanh, 95% số hộ được xem truyền
hình. Đặc biệt, việc tổ chức thành công Festival Cồng chiêng Quốc tế năm 2009
tại Gia Lai là sự khẳng định giá trị của Di sản văn hóa phi vật thể của nhân
loại đã được UNESCO công nhận.
Ngành Giáo dục-Đào tạo phát
triển khá toàn diện cả về quy mô và chất lượng, với hệ thống trường lớp học
được đầu tư xây dựng kiên cố, đủ điều kiện phục vụ dạy và học. Đến nay có 44
trường đạt chuẩn quốc gia; quy mô học sinh đạt 2.653 học sinh phổ thông/vạn
dân; đã hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Các trường trung cấp
chuyên nghiệp, cao đẳng, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm bồi dưỡng
chính trị, Phân hiệu Đại học Nông Lâm
Thành phố Hồ Chí Minh tại Gia Lai đã hoạt động ổn định, góp phần quan trọng
trong việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho tỉnh. Công tác chăm sóc và bảo
vệ sức khỏe cho nhân dân không ngừng được quan tâm; đã đẩy lùi được dịch sốt
rét, khống chế được các dịch bệnh nguy hiểm, giảm tỷ lệ tăng tự nhiên dân số;
đã cơ bản xóa mù do đục thủy tinh thể cho người nghèo trên địa bàn toàn tỉnh;
số cơ sở khám-chữa bệnh, trang-thiết bị y tế, đội ngũ cán bộ y tế luôn được đầu
tư và củng cố, đến nay bình quân có 5 bác sĩ/1 vạn dân, 48,2% trạm y tế xã có
bác sĩ; 25% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế.
Công tác xã hội hóa trên lĩnh
vực văn hóa, y tế, giáo dục, thể thao, vận tải,... đạt được những kết quả đáng
khích lệ; với sự ra đời của Câu Lạc bộ Bóng đá Hoàng Anh Gia Lai, Trung tâm Đào
tạo Bóng đá Hoàng Anh Arsenal-JMG, Bến xe Đức Long Gia Lai, Trường Phổ thông
Nguyễn Văn Linh... Đó là những mô hình xã hội hóa tiêu biểu, đã góp phần quảng
bá về hình ảnh của Gia Lai.
Hệ thống chính trị cơ sở không
ngừng được củng cố, khối đại đoàn kết toàn dân được tăng cường, quyền làm chủ
của nhân dân được phát huy, sự đồng thuận trong xã hội ngày càng cao, an ninh
chính trị-trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
35 năm xây dựng và phát triển,
Gia Lai đã trở thành một địa phương có tốc độ phát triển nhanh và khá toàn diện
trên nhiều lĩnh vực, đời sống của nhân dân các dân tộc từng bước được cải
thiện. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức cao; quy mô nền kinh tế
sau 35 năm tăng gấp 34 lần; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực và đúng hướng,
đến năm 2009 tỷ trọng ngành nông-lâm nghiệp chiếm 43,16%; công nghiệp-xây dựng chiếm
29,57% và dịch vụ chiếm 27,13%; GDP bình quân đầu người đạt 12,43 triệu đồng.
Có được những thành quả trên,
trước hết là nhờ có đường lối sáng suốt của Đảng, sự quan tâm sâu sắc của Chính
phủ, của các bộ, ngành Trung ương đối với tỉnh; đó là kết quả từ truyền thống
đoàn kết, thống nhất, đổi mới, năng động, sáng tạo, quyết tâm cao của toàn
Đảng, toàn quân và nhân dân các dân tộc Gia Lai trong việc thực hiện đường lối
đổi mới của Đảng trong hơn 2 thập kỷ đổi mới. Đây là động lực mạnh mẽ để tỉnh
Gia Lai phát triển đi lên.
Tự hào về những thành tựu đã
đạt được trong 35 năm qua, Đảng bộ, quân và dân các dân tộc Gia Lai nêu cao
tinh thần trách nhiệm, phấn đấu vì một Gia Lai phát triển nhanh, mạnh và bền
vững; vì ấm no và hạnh phúc cho mọi người, mọi nhà và cho cả cộng đồng, góp
phần vào sự phát triển chung của cả nước./.
Phạm Thế DũngPhó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND Tỉnh Gia Lai
No comments:
Post a Comment