Quan hệ ngoài hôn nhân là vấn đề được C.Mác cho là hệ quả của chế độ một vợ một chồng. Tuy nhiên, mỗi mô hình xã hội trong những giai đoạn lịch sử khác nhau lại có những nhượng bộ để hợp thức hoá các quan hệ ngoài hôn nhân. Do vậy, có thể nói, các quan hệ ngoài hôn nhân luôn tồn tại kể từ khi chế độ hôn nhân một vợ một chồng hình thành. Là một đất nước chịu ảnh hưởng mạnh tư tưởng Nho giáo, các quan hệ ngoài hôn nhân trong gia đình Việt Nam truyền thống thường được một bộ phận dân cư nhìn nhận là có thể chấp nhận được nếu xuất phát từ phía người nam giới. Nó được hợp thức bằng quan niệm: người đàn ông được phép có quyền có nhiều vợ hoặc có thể có những mối quan hệ ngoài hôn nhân. Tuy nhiên, gia đình vẫn có một chức năng quan trọng là kiểm soát tình dục, do đó, các mối quan hệ ngoài hôn nhân trong gia đình truyền thống của người Việt, tuy vẫn tồn tại nhưng không thể được công khai chính thức cũng như không được đông đảo dư luận ủng hộ, nhất là khi quan hệ đó lại xuất phát từ phía người phụ nữ. Nhiều hình thức trừng phạt nghiệt ngã của xã hội đã được áp dụng đối với những mối quan hệ như vậy. Sự phản ứng của dư luận xã hội về các mối quan hệ ngoài gia đình chính là một công cụ hữu hiệu ngăn chặn những quan hệ có nguy cơ vượt khỏi phạm vi kiểm soát của gia đình. Các mối quan hệ ngoài hôn nhân thường được thể hiện dưới các hình thức phổ biến như: vợ hoặc chồng ngoại tình, chồng có quan hệ với gái mại dâm và việc người phụ nữ có con ngoài giá thú. Nếu như việc ngoại tình là hiện tượng xuất hiện từ rất sớm thì mại dâm và việc phụ nữ có con ngoài giá thú dường như là sản phẩm của xã hội hiện đại nhiều hơn. Cả ba dạng thức này đang có những dấu hiệu tăng nhanh về số lượng. Và quan trọng hơn cả là có sự thay đổi trong cách nhìn nhận, đánh giá của người dân. Về cơ bản, ngoại tình vẫn là vấn đề gây nên hậu quả xấu nhất đối với quan hệ vợ chồng. Đại đa số người dân không chấp nhận hiện tượng này. Vì vậy, nó là nguyên nhân chính dẫn đến ly hôn. Tuy nhiên, tại một số khu vực đô thị, vấn đề ngoại tình đang được một tỷ lệ nhất định người dân xem như một giải pháp có thể chấp nhận được để dung hoà giữa việc cân bằng đời sống tình cảm cá nhân và duy trì gia đình. Trước hết, quan niệm này có những cơ sở tâm - sinh lý nhất định. Sự quen thuộc và đơn điệu trong quan hệ hôn nhân có thể là lý do dẫn đến những giảm sút hưng phấn trong quan hệ tình dục, một vấn đề của xã hội hiện đại, khi mà con người luôn đòi hỏi gia đình phải thoả mãn ngày một tốt hơn chức năng đáp ứng tâm sinh lý, tình cảm của con người. Đây chính là căn nguyên hình thành nên cái gọi là cuộc cách mạng tình dục, vốn được khởi xướng từ những năm cuối thế kỷ 19, khi Sigmund Freud chứng minh rõ bản chất gốc rễ của hành vi con người là lòng ham muốn tính dục (gọi là bản năng hay libido).
Cuộc cách mạng này là sự giải phóng về mặt nhận thức. Những vấn đề kín đáo nay trở nên cởi mở với dụng ý đối lập với chủ nghĩa khắc kỷ. Sự bàn luận đến các vấn đề dục tính trở nên công khai hơn và đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến hành vi tình dục của phụ nữ. Điều này được xem như một sự phát triển tự nhiên của tiến trình lịch sử thời hiện đại. Theo đường xoáy, nó dường như trả xã hội về với hơn 2000 năm trước, thời của văn hoá Hy Lạp - La Mã với sự đề cao thần tình yêu và tôn sùng các vị thần có đời sống tình dục phóng khoáng, trái ngược với những giáo huấn của nhà thờ. Khi những vấn đề bản năng được có cơ hội giải thoát, cuộc cách mạng tình dục được tiếp nhận nhanh chóng và cũng đã để lại những hậu quả về mặt xã hội do những hưởng ứng thái quá của nó. Không chỉ có cơ sở tâm sinh lý, việc ngoại tình còn có những cơ sở xã hội trợ giúp. Xu hướng giải phóng cái tôi khỏi những ràng buộc về luân lý, đạo đức ảnh hưởng rộng rãi trên toàn cầu. Chiếc xe Lexus trong quá trình di chuyển trên các cánh đồng oliu tuy có vấp phải một số phản ứng, nhưng về cơ bản là thắng thế. Chỉ còn Quan điểm ứng xử về việc bạn đời ngoại tình 4 lại những vùng oliu ở xa, nơi mà chiếc Lexus chưa kịp di chuyển tới là còn có thể đủ thời gian để kịp ngăn cản1. Các quan hệ ngoài hôn nhân thậm chí còn được xem như một giải pháp cứu vãn hôn nhân, nuôi dưỡng hôn nhân khi mà ở đó, nhu cầu thoả mãn tâm sinh lý, tình cảm không còn được đặt ra một cách quá bức xúc nữa. Điều này lý giải một thực tế ở Việt Nam hiện nay là: việc ngoại tình của vợ và chồng không phải là lý do cơ bản nhất dẫn đến sự không hài lòng về cuộc hôn nhân, cũng không phải là lý do mang tính chất quyết định các cuộc ly hôn của các gia đình. Có 25.9% các cuộc ly hôn do ngoại tình nhưng có tới 27,7% các cuộc ly hôn do mâu thuẫn về lối sống.Tương tự như vậy, chỉ có 10,4% các cặp vợ chồng không hài lòng về cuộc hôn nhân của mình vì lý do chồng hoặc vợ ngoại tình nhưng cũng có tới 8,5 % là do không hoà hợp về sinh lý và tới 45,3% là do những bất hoà trong ứng xử 2. Điều này phù hợp với kết quả điều tra của chúng tôi khi chỉ có 14,7% số người được hỏi chọn phương án ly dị nếu chồng hoặc vợ ngoại tình3. Một nguồn điều tra khác cũng có kết quả không quá chênh lệch, cụ thể:
Tha thứ và không bao giờ nhắc lại chuyện cũ
|
30.4%
|
2,048 phiếu
|
Tha thứ, song vẫn khóc thầm mỗi khi buồn
|
29.5%
|
1,988 phiếu
|
Khi bạn đời mắc lỗi, lại nhắc chuyện cũ
|
6.0%
|
403 phiếu
|
Quyết ly dị vì rất có thể bạn đời lại ngoại tình
|
27.2%
|
1,831 phiếu
|
Ý kiến khác
|
6.9%
|
464 phiếu
|
Tổng cộng: 6,734 phiếu
Tất nhiên, tỷ lệ trên có thay đổi trong các nhóm đối tượng điều tra khác nhau, vùng điều tra khác nhau, nhưng điều đó cho thấy: cho dù bị đa số phản đối thì cũng đã có một sự dịch chuyển trong quan niệm của một bộ phận người dân về vấn đề ngoại tình.
Việc có một tỷ lệ nhất định chấp nhận ngoại tình không chỉ hoàn toàn xuất phát từ quan niệm rộng rãi hơn về vấn đề này mà còn có một phần liên quan đến vấn đề kinh tế và giáo dục con cái. Nếu như quan niệm về vấn đề ngoại tình có rộng rãi hơn ảnh hưởng ở khu vực đô thị thì vấn đề kinh tế và giáo dục con cái lại có phần chi phối nặng hơn ở các khu vực khác. Phỏng vấn sâu một số đối tượng là nhân viên văn phòng trong độ tuổi 30-50 với nội dung: nếu biết nhân viên hay đồng nghiệp của mình ngoại tình, thái độ của ông (bà) thế nào? kết quả cho thấy: rất nhiều ý kiến cho rằng đó là việc riêng của cá nhân, không ảnh hưởng đến họ, miễn sao không để ảnh hưởng đến công việc và người bạn đời. Khi dư luận không quá nghiệt ngã với vấn đề trên, ngoại tình nơi công sở đang được xem là khu vực phổ biến nhất ở đô thị. Quan điểm chung có phần rộng rãi hơn về vấn đề này ở đô thị khiến giải pháp ly dị không phải luôn được áp dụng khi người bạn đời ngoại tình. Trong khi đó, ở các khu vực khác, ngay cả khi không thể tha thứ cho việc ngoại tình thì nguyên nhân khiến các cặp vợ chồng không chọn giải pháp ly hôn còn liên quan đến quan niệm truyền thống về uy tín, danh dự gia đình và giáo dục con cái. Không loại trừ cả nguyên nhân kinh tế khi mà nhiều người đàn ông bỏ làng đi làm ăn xa có quan hệ ngoài gia đình nhưng người vợ phụ thuộc tài chính, khó có thể dứt khoát để nuôi con một mình. Cho dù có nhiều nguyên nhân khiến các cặp vợ chồng không chọn giải pháp ly hôn, kể cả vì nguyên nhân coi chuyện ngoại tình không quá nghiêm trọng thì ngoại tình cũng khiến quan hệ vợ chồng trở nên căng thẳng. Khi niềm tin đổ vỡ, tình cảm sẽ khó có thể hàn gắn. Do không còn hoà hợp trong tình cảm, mọi khác biệt nhỏ sẽ trở thành xung đột, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống gia đình. Tình cảm đổ vỡ nhưng lại khó có thể ly hôn dẫn đến một hướng giải quyết được coi là sản phẩm của gia đình Việt Nam hiện đại: ly thân. Theo kết quả điều tra của chúng tôi, có tới 10,2% các cặp vợ chồng chọn giải pháp ly thân khi biết bạn đời ngoại tình. Tỷ lệ này ở Hà Nội là 12% nhưng ở một huyện thuần nông của Hà Nam là 0%; ở nam giới là 10%, nữ là 11,1%; độ tuổi dưới 30 là 15,6%, từ 3050 tuổi là 9,1%, gia đình nông dân là 5,3%, công nhân - trí thức là 9,2%. Những thông số trên cho thấy: ly thân phổ biến ở thành thị hơn nông thôn, trong tầng lớp công nhân trí thức hơn các gia đình nông dân, nữ chọn nhiều hơn nam và có xu hướng trẻ hoá ở các cặp vợ chồng trong độ tuổi 30. Điều này chưa thể khẳng định là một xu hướng nhưng tỷ lệ chọn giải pháp ly thân tăng cũng đã cho thấy một cách ứng xử mới đang hiện diện trong quan hệ vợ chồng của gia đình Việt Nam hiện đại. Xét về hình thức, nó làm giảm tỷ lệ ly hôn, tạo nên sự ổn định tương đối cho gia đình cũng như xã hội, tránh cho trẻ em những thiệt thòi và tổn thương tâm lý khi cha mẹ ly hôn, tránh cho người phụ nữ bị thiệt thòi khi nhiều người đàn ông sau khi ly hôn đã không hoàn thành nghĩa vụ đóng góp tài chính nhưng về bản chất, ly thân hàm chứa những bất ổn lớn hơn rất nhiều. Khi con cái biết chúng bị lừa dối, sự đổ vỡ trong suy nghĩ còn dẫn tới coi thường bố mẹ. Đó là chưa kể tới cuộc sống ly thân thường khiến vợ chồng rất căng thẳng do phải chịu đựng sự tiếp xúc hàng ngày với nhau. Cuộc sống ly thân kéo dài cũng tất yếu dẫn đến những mối quan hệ ngoài hôn nhân, gây tổn thương các gia đình khác. Trên thực tế, ly thân thực chất là giai đoạn tiền ly hôn, kéo dài xung đột để duy trì một sự ổn định mang tính hình thức. Cũng là vấn đề quan hệ ngoài hôn nhân nhưng trong khi ngoại tình là hiện tượng cho dù có được nhìn nhận cởi mở hơn vẫn được ít người chấp nhận thì những việc những người phụ nữ không chồng sinh con lại đang được xã hội đánh giá một cách nhân ái hơn, đặc biệt, với những người phụ nữ trên 35 tuổi ít có cơ hội lập gia đình. Có tới 9,3% số người trên 61 tuổi, 8,5% số người từ 18 – 60 tuổi và 6,2% vị thành niên được hỏi chấp nhận việc người phụ nữ không có chồng nhưng có con. Sự khác biệt trên cho thấy, những người cao tuổi lại có cái nhìn cảm thông hơn với việc phụ nữ sinh con một mình. Thái độ đối với vấn đề này cũng biến thiên trong các nhóm đối tượng, theo đó, khu vực đô thị dễ chấp nhận hơn so với nông thôn (10,1% và 7,9%). Đặc biệt, sự khác nhau trong quan niệm về vấn đề này bộc lộ rất rõ ở các nhóm có trình độ học vấn khác nhau. Xin xem biểu sau:
Tỷ lệ chấp nhận hiện tượng phụ nữ không chồng có con
25
20
15
10
5
0
tiểu học THCS THPT TH-CĐ Đại học
Nguồn: Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch
Chỉ báo trên cho thấy, những người có trình độ học vấn cao dễ có cái nhìn cảm thông hơn với hiện tượng phụ nữ không chồng sinh con. Đó là biểu hiện của việc xã hội đã nhìn nhận vấn đề từ góc độ quyền làm mẹ của người phụ nữ, một quyền mang tính nhân văn sâu sắc. Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề tiềm ẩn nguy cơ đổ vỡ gia đình khi mối quan hệ nhân văn này lại trở thành quan hệ ngoài gia đình của một cuộc hôn nhân khác. Do vậy, có thể nhận thấy rằng: trong mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh, mọi thời đại, vấn đề quan hệ ngoài hôn nhân vẫn là thứ vũ khí huỷ diệt hạnh phúc gia đình. Trong thời kỳ hội nhập, với sự biện minh của tư duy hiện đại, các mối quan hệ ngoài hôn nhân đang thực sự trở thành nỗi lo lắng lớn nhất của gia đình Việt Nam. Như vậy, bên cạnh xu hướng bình đẳng trong quan hệ ứng xử vợ chồng, gia đình người Việt vẫn đang phải chứng kiến sự tồn tại của bạo lực gia đình và những quan hệ ngoài hôn nhân như những mặt trái của các chuẩn giá trị trong quan hệ gia đình. Trong những giai đoạn phát triển nhất định của tiến bộ xã hội, sự tồn tại cùng lúc của các yếu tố tưởng như mâu thuẫn với nhau như trên lại là một điều không tránh khỏi. Điều này là hệ quả của nhiều yếu tố tác động, nhưng, một trong những yếu tố tiêu biểu và mang tính khác biệt so với các yếu tố tác động trong những giai đoạn xã hội khác, đó là Internet. Khi những sĩ quan quân đội Mỹ nghĩ ra hình thức liên kết thông tin với điện thoại cho các máy tính quân sự, họ không hình dung được những hiệu quả xã hội do phát kiến của họ tạo nên. Sự bùng nổ thông tin khiến thế giới xích lại gần nhau và gia đình được mở rộng. Những vấn đề của một gia đình trở thành của mọi gia đình khi nó được chia sẻ. Vấn đề bình đẳng giới theo kênh thông tin này mà đi vào mọi gia đình, nó khiến người phụ nữ được nghĩ nhiều đến bản thân hơn, được đòi hỏi quyền sống cho mình nhiều hơn, nhận thức được nỗi cô đơn và nhu cầu chia sẻ mãnh liệt hơn. Và đương nhiên, những mối quan hệ ngoài hôn nhân cũng sẽ có nhiều cơ hội xuất hiện hơn.
Gia đình được mang đến những tác động tích cực từ internet như: thông tin giáo dục, kiến thức kỹ thuật, tình hình thế giới, liên kết bạn bè... nhưng cũng phải gánh chịu những hiểm hoạ từ kênh giao tiếp rất thuận lợi này. Theo một nghiên cứu của Mỹ, ngoại tình qua máy tính đang trở thành hiện tượng phổ biến với phái yếu nước này. Còn theo số liệu thống kê ở Anh thì 10% các vụ ly hôn liên quan đến máy tính5.
Điều này được khẳng định trong nghiên cứu của nhiều nước trên thế giới hiện nay, trong đó có Việt Nam. Lợi thế của kênh thông tin này được phân tích là:
Chỉ với những cái tin nhắn réo rắt, vài hình ảnh lãng mạn trong email, hay dăm câu lả lơi trên Yahoo Mesenger, người ta có thể dễ dàng đề cập thẳng vào vấn đề “cuối cùng” mà dù có to gan ăn vụng cỡ nào thì kẻ đi cắm sừng cũng cảm thấy mắc cỡ khi nói thành lời.... Các đôi tình nhân có thể chát để bày tỏ những điều mà không thể nói trực diện. Và không chỉ bằng lời. Có vô số những biểu tượng có thể dùng để thay thế cho một cái ôm, những nụ hôn, sự nhớ nhung, lúc buồn chán, khi tức giận… Có vô số những đường link mà chỉ cần một thao tác cắt dán đơn giản, họ có thể nhờ một tờ báo bên Mỹ, một bài hát bên Anh, hoặc một đoạn phim bên Hàn Quốc nói hộ ý mình. Đó là chưa kể tới những ký tự, tín hiệu, ám hiệu riêng nữa.... Được thì được, không được thì cũng… không đỏ mặt. Thói xấu vô tình bị giảm nhẹ. Sự buông thả đôi lúc trở nên dễ dãi hơn. Đã thế, công nghệ lại rất tiện cho chuyện “chùi mép”. Với hòm thư trực tuyến 24/24 giờ, họ có thể liên lạc với bồ một cách dễ dàng mà chẳng cần ra khỏi nhà, lang thang quán xá này nọ 6.
Các con số cụ thể chưa được thống kê tại Việt Nam nhưng theo kết quả khảo sát trực tiếp của chúng tôi trên các trang làm quen trực tuyến trên mạng, có thể thấy một thực tế là: có một tỷ lệ không nhỏ những tin làm quen trên mạng lại là của những người đã có gia đình hoặc không ghi rõ thông tin, chỉ khi câu chuyện trở nên thân mật thì người đó mới nói về tình trạng hôn nhân của mình với hàng ngàn lý do để tìm người chia sẻ. Xin xem thông tin tại bảng tổng hợp ngẫu nhiên của nhóm nghiên cứu trên hai trang kết bạn khá phổ biến, được xem là công khai và lành mạnh nhất so với các trang làm quen khác. Số tin được khảo sát trong mỗi trang là 100.
Trang Mua bán (muaban.net)
Phân loại
|
Số người
|
Tỉ lệ
| |||
Giới tính
|
Nam
|
66
|
66%
| ||
Nữ
|
34
|
34%
| |||
Tình trạng hôn nhân
|
Chưa kết hôn
|
18
|
18%
| ||
Đang có vợ (chồng)
|
12
|
12%
| |||
Đang li thân
|
3
|
3%
| |||
Đã li hôn
|
12
|
12%
| |||
Góa
|
2
|
2%
| |||
Chưa rõ thông tin
|
53
|
53%
| |||
Độ tuổi
|
No comments:
Post a Comment