Theo
công bố mới đây trong báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2006-2007 của Diễn
đàn kinh tế thế giới, thứ hạng của Việt Nam xếp theo Chỉ số năng lực cạnh tranh
tổng hợp là 77 trên 125 quốc gia, Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng là 86.
Trong khi đó thứ hạng tương ứng theo các chỉ số trên của Việt Nam tại báo cáo
năm 2005-2006 là 74 và 81, trong tổng số 117 quốc gia được xếp hạng. Như vậy, thứ
hạng của Việt Nam theo các chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp và tăng trưởng
năm 2006 đều sụt giảm so với năm 2005. Bài viết này phân tích sự sụt hạng về
các chỉ số năng lực cạnh tranh của Việt Nam theo xếp hạng của Diễn đàn kinh
tế thế giới.
Chỉ số Năng lực cạnh tranh tổng hợp
(Global Competitiveness Index) lần đầu tiên được công bố trong Báo cáo năng lực
cạnh tranh toàn cầu 2004-2005 và hiện nay được Diễn đàn Kinh tế thế giới sử
dụng làm chỉ số chính đo lường năng lực cạnh tranh quốc gia. Như vậy, trong ba
lần công bố, thứ hạng của Việt Nam
xếp theo Chỉ số Năng lực cạnh tranh tổng hợp liên tục giảm: hạng 61 năm 2004,
74 năm 2005 và 77 năm 2006. Một chỉ số đáng lưu ý là điểm xếp hạng. Việc so
sánh điểm số xếp hạng của từng nước qua các năm cho phép so sánh sự thay đổi
năng lực cạnh tranh của bản thân quốc gia đó. Năm 2005, điểm số xếp hạng năng
lực cạnh tranh tổng hợp của Việt Nam
tăng so với năm 2004, nhưng Việt Nam vẫn bị giảm hạng do nhiều quốc
gia khác có tiến bộ hơn. Tuy nhiên, năm nay điểm số xếp hạng của Việt Nam lại gần như
không thay đổi, trong khi nhiều nước vẫn tiếp tục cải thiện năng lực cạnh tranh
của bản thân họ. Kết quả này dường như cho thấy những nỗ lực nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia của Việt Nam
trong năm qua là chưa nhiều và do vậy chưa đủ để giúp Việt Nam cải thiện
về thứ hạng.
Chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp
được xây dựng trên cơ sở đo lường các yếu tố có tác động lớn tới năng suất và
năng lực cạnh tranh quốc gia. Các yếu tố này được phân loại thành 9 nhóm nhân
tố và còn được gọi là 9 trụ cột thể hiện năng suất và năng lực cạnh tranh quốc
gia. Các trụ cột đó bao gồm: thể chế, hạ tầng, kinh tế vĩ mô, giáo dục cơ bản
và y tế, giáo dục và đào tạo bậc cao, hiệu quả thị trường, mức độ sẵn sàng về
công nghệ, trình độ kinh doanh và đổi mới. Có thể thấy 7 trong số 9 trụ cột của
năng lực cạnh tranh của Việt Nam có thứ hạng giảm, trong đó đáng lưu ý là trụ
cột về hiệu quả thị trường, giảm 17 hạng, thể chế giảm 11 hạng, kinh tế vĩ mô
giảm 9 hạng. Việt Nam
đã có sự cải thiện thứ hạng về phát triển hạ tầng và trình độ kinh doanh, nhưng
mức độ thăng hạng không nhiều (2 hạng). Điều đáng lưu ý là hầu hết các trụ cột
bị giảm hạng đều có điểm xếp hạng giảm, nhất là lĩnh vực y tế và giáo dục cơ
bản. Điều này cho thấy sự giảm hạng của các trụ cột phát triển của Việt Nam có nguyên nhân từ sự suy giảm năng lực cạnh
tranh của chính Việt Nam
chứ không chỉ là do sự tiến bộ của các nước. Đây là một cảnh báo thực sự đáng
lo ngại.
Bảng 1. Thay đổi
thứ hạng qua các chỉ số năng lực cạnh tranh chung
Hạng năm 2006
|
Hạng năm 2005
|
Tăng (+)/giảm
(-) hạng
|
||||
Hạng
|
Điểm
|
Hạng
|
Điểm
|
Hạng
|
Điểm
|
|
Chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp
|
77
|
3.89
|
74
|
3.91
|
-3
|
-0.02
|
Thể chế
|
74
|
3.62
|
63
|
3.66
|
-11
|
-0.04
|
Hạ tầng
|
83
|
2.79
|
85
|
2.69
|
2
|
0.10
|
Kinh tế vĩ mô
|
53
|
4.63
|
44
|
4.69
|
-9
|
-0.06
|
Y tế và giáo dục
cơ bản
|
56
|
6.43
|
54
|
6.69
|
-2
|
-0.26
|
Đào tạo và giáo dục bậc cao
|
90
|
3.39
|
88
|
3.32
|
-2
|
0.07
|
Hiệu quả thị trường
|
73
|
4.10
|
56
|
4.12
|
-17
|
-0.02
|
Sự sẵn sàng về kỹ thuật
|
85
|
2.85
|
81
|
2.74
|
-4
|
0.11
|
Trình độ kinh
doanh
|
86
|
3.55
|
88
|
3.55
|
2
|
0.00
|
Đổi mới và sáng
tạo
|
75
|
3.10
|
57
|
3.18
|
-18
|
-0.08
|
Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng
trưởng là chỉ số truyền thống được sử dụng để đo lường năng lực cạnh tranh của
quốc gia. Chỉ số này đo lường các yếu tố vĩ mô tác động tới tăng trưởng quốc
gia. Chỉ số này được xây dựng trên ba nhóm chỉ số cơ bản được coi là các trụ
cột cho tăng trưởng của nền kinh tế, đó là Chỉ số về công nghệ, Chỉ số thể chế
công và Chỉ số ổn định môi trường kinh tế vĩ mô. Tương tự như chỉ số năng lực
cạnh tranh tổng hợp, Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng bị giảm hạng với
điểm xếp hạng gần như không thay đổi. Hơn nữa, tất cả ba trụ cột của tăng
trưởng kinh tế và hầu hết các chỉ số cấu thành đều có thứ hạng giảm. Các chỉ số
có thứ hạng giảm nhiều nhất là chuyển giao công nghệ (giảm 33 hạng), đánh giá
tín nhiệm quốc gia (giảm 23 hạng), sự lãng phí của khu vực nhà nước (giảm 18
hạng) và ổn định kinh tế vĩ mô (giảm 8 hạng).
Xét về điểm xếp hạng có thể thấy, ngoại trừ chỉ số lãng phí
của khu vực nhà nước có điểm xếp hạng giảm mạnh (giảm 0,33 điểm), các chỉ số
khác có điểm xếp hạng đều tăng hoặc không thay đổi đáng kể. Đáng lưu ý là chỉ
số chống tham nhũng có điểm xếp hạng tăng cao nhất, 0,25 điểm. Hơn nữa, chỉ số
chuyển giao công nghệ và đánh giá tín nhiệm quốc gia thuộc nhóm có thứ hạng
giảm mạnh nhưng điểm số xếp hạng lại tăng đáng kể.
Những số liệu về xếp hạng và điểm xếp hạng trên cho chúng ta
thấy rằng trong năm qua Việt Nam đã có sự tiến bộ đáng kể trong nhiều lĩnh vực
có ảnh hưởng lớn tới tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là chống tham nhũng. Tuy
nhiên, những tiến bộ đó vẫn chưa theo kịp được với những diễn biến của nhiều
quốc gia. Hơn nữa, mặc dù chống tham nhũng dường như bắt đầu được cộng đồng
đánh giá cao, nhưng lãng phí trong khu vực nhà nước vẫn là vấn đề nổi cộm và
việc chống lãng phí chưa thực sự tạo được niềm tin trong cộng đồng.
Bảng 2. Thay đổi
thứ hạng qua các chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng
Hạng năm 2006
|
Hạng năm 2005
|
Tăng (+)/giảm
(-) hạng
|
||||
Hạng
|
Điểm
|
Hạng
|
Điểm
|
Hạng
|
Điểm
|
|
Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng
|
86
|
3.44
|
81
|
3.37
|
- 5
|
0.07
|
Chỉ số công nghệ
|
96
|
2.86
|
92
|
2.72
|
-4
|
0.14
|
Chỉ số đổi mới
|
94
|
1.86
|
88
|
1.87
|
-6
|
-0.01
|
Chỉ số công nghệ
thông tin
|
84
|
2.19
|
86
|
2.04
|
2
|
0.15
|
Chỉ số chuyển
giao công nghệ
|
102
|
4.08
|
69
|
3.92
|
-33
|
0.16
|
Chỉ số thể chế công
|
103
|
3.58
|
97
|
3.43
|
-6
|
0.15
|
Chỉ số pháp luật
và hợp đồng
|
68
|
3.74
|
64
|
3.71
|
-4
|
0.03
|
Chỉ số tham nhũng
|
116
|
3.41
|
111
|
3.16
|
-5
|
0.25
|
Chỉ số môi trường vĩ mô
|
68
|
3.88
|
60
|
3.96
|
-8
|
-0.08
|
Chỉ số ổn định
kinh tế vĩ mô
|
45
|
4.75
|
34
|
4.80
|
-11
|
-0.05
|
Chỉ số đánh giá
tín nhiệm
|
75
|
3.34
|
52
|
3.24
|
-23
|
0.10
|
Chỉ số đánh giá
sự lãng phí của khu vực nhà nước
|
91
|
2.68
|
73
|
3.01
|
-18
|
-0.33
|
Nguồn: Báo cáo Năng lực Cạnh tranh Toàn cầu 2006- 2007,
Diễn đàn Kinh tế thế giới.
Phân tích nêu trên cho thấy dường
như có hai bức tranh đối lập: đó là Việt Nam có nhiều nỗ lực trong cải thiện
các yếu tố tác động tới tăng trưởng kinh tế, nhưng chưa nhiều trong việc cải
thiện các yếu tố tác động tới năng lực cạnh tranh quốc gia. Các kết quả đánh
giá trên dường như thể hiện vấn đề đang gây lo ngại hiện nay là chất lượng tăng
trưởng. Chất lượng tăng trưởng thấp càng trở nên bức xúc khi Việt Nam hội nhập
ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
Nguồn:
Báo Đầu tư, thứ hai ngày 2/10/2006
TS. Đinh Văn ÂnThS. Phạm Hoàng Hà
Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế TW
No comments:
Post a Comment