Để thực hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu về các dân tộc, văn hóa các dân tộc,
trước tiên phải nắm chắc những vấn đề then chốt trong hệ thống lý thuyết tộc người và
bắt buộc phải phân loại được các tộc người/dân tộc. Khâu then chốt này vừa là mục
tiêu, nhiệm vụ, lại vừa là cơ sở, nền tảng quyết định đến sự thành công của nhà
nghiên cứu.
Dân tộc học là khoa học nghiên cứu về các cộng đồng tộc người. Nếu Dân tộc
học Âu - Mỹ xưa kia chỉ nghiên cứu các dân tộc lạc hậu (ở thuộc địa), thì Dân tộc
học Mác - xít lại nghiên cứu tất cả các cộng đồng tộc người, không phân biệt
dân tộc lạc hậu hay đã phát triển, trong đó nhiệm vụ hàng đầu là nghiên cứu văn
hóa các dân tộc. Để thực hiện tốt nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu, trước tiên
Dân tộc học phải giải quyết những vấn đề về lý thuyết tộc người và bắt buộc phải
phân loại được các tộc người. Khâu then chốt này vừa là mục tiêu, nhiệm vụ, lại
vừa là cơ sở, nền tảng quyết định đến sự thành bại của Dân tộc học.
Vậy những vấn đề cơ bản về lý thuyết tộc người và phân loại tộc người là
gì. Quan điểm của các nhà nghiên cứu thuộc các trường phái khác nhau về những vấn
đề này như thế nào. Ở Việt Nam lý thuyết tộc người và phân loại tộc người đã và
đang diễn ra như thế nào; thế nào là một dân tộc, thế nào là một tộc người; văn
hóa tộc người là gì, văn hóa dân tộc là gì,... Những vấn đề nêu trên đã tác động
như thế nào đến thực tiễn công tác dân tộc, xác định thành phần dân tộc và
nghiên cứu văn hóa các dân tộc.Dưới đây là một vài bàn luận nhỏ về những câu hỏi
nêu trên.
1. Dân tộc và Tộc người
Thực tiễn ở Việt nam cho thấy, các khái niệm dân tộc và tộc
người đều đã, đang và sẽ đồng
thời tồn tại. Khái niệm dân tộc được dùng để chỉ Dân tộc Việt Nam (tất cả những người là công dân Việt
Nam, sinh sống trên đất Việt Nam và Việt kiều ở nước ngoài). Tuy thế, dân tộccũng được dùng để chỉ
các cộng đồng tộc người cụ thể như dân
tộc Chăm, dân tộc Tày, dân tộc Việt (Kinh), dân tộc Mảng, dân tộc Sán Dìu,…Như
vậy trong thực tiễn Việt Nam, dân
tộc có hai nội hàm: chỉ dân tộc
ở cấp độ quốc gia - Nation (Dân tộc Việt Nam); chỉ cộng đồng
tộc người cụ thể - Ethnic/Ethnie (Dân tộc Chăm,…). Để hiểu
rõ các khái niệm trên, buộc phải xem xét khái niệm chỉ các loại hình cộng đồng
người trong lịch sử cũng như các khái niệm dân
tộc(Nation) và tộc
người (Ethnie/Ethnic).
Các kết quả nghiên cứu của Sử học, Khảo cổ học, Ngôn ngữ học, Xã hội học,
Dân tộc học,... cho thấy, từ khi hình thành, nhân loại đã từng trải qua các
hình thái cộng đồng như sau:
* Bộ lạc (xã hội Nguyên thuỷ), gồm hai loại hình: Bộ lạc giai đoạn sớm (Loại hình cộng đồng người cổ nhất
của những con người hiện đại, hình thành từ các bào tộc (cũng có thể là từ bầy
người nguyên thủy) thông qua sự tự phân chia; các đặc trưng văn hoá, tổ chức xã
hội cơ bản là trùng khớp nhau; có tên gọi riêng, truyền thuyết về nguồn gốc
riêng, lãnh thổ riêng, cung cách sinh sống riêng; các bộ lạc cùng liên minh thường
ít có sự cách biệt về ngôn ngữ (thổ ngữ), đặc trưng văn hoá, kinh tế và xã hội,...); Bộ lạc giai đoạn muộn (là tiền thân của các cộng đồng
người của xã hội có giai cấp; đã hình thành các tổ chức tiền thân của bộ máy
hành chính; đã hình thành các liên minh bộ lạc, hội đồng liên minh các thủ lĩnh
quân sự; ...).
* Bộ tộc (các xã hội có giai cấp tiền Tư bản). Đó là cộng đồng
gồm những người có mối liên hệ về văn hoá, kinh tế, lãnh thổ, láng giềng. Bộ tộc
bao gồm bộ phận thống trị xã hội và bộ phận bị trị (phụ thuộc), tức là, đã có sự
phân biệt rõ ràng về địa vị kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá. Bộ tộc có phải
là loại hình cộng đồng người của thời kỳ xã hội có giai cấp tiền Tư bản hay
không? Dân tộc học Xô Viết trước đây và Dân tộc học Việt Nam thừa nhận: Bộ tộc
chiếm nô là loại hình cộng đồng người thuộc xã hội Chiếm hữu nô lệ; Bộ tộc phong kiến là loại hình cộng đồng
người thuộc xã hội Quân chủ
chuyên chế.
Bộ tộc Chiếm nô, chủ yếu
gồm những người
sinh sống bằng nông nghiệp trồng trọt, gồm: chủ
nô, các thành viên tự do và nô
lệ. Ở giai đoạn Chiếm nô
muộn, nô lệ được cấp công cụ sản xuất, được trả tự do, cho phép kết hôn và
lập gia đình…(ví như ở La Mã cố đại).
Bộ tộc phong kiến, chủ yếu
gồm nông nô và thị dân; tầng lớp thống trị như địa chủ (cả phú ông…) có xu hướng
thoát ly khỏi cộng đồng của những người lao động, và nó đứng ngoài thành phần của
bộ tộc. Đặc điểm nổi bật của thời kỳ này là sự cát cứ phong kiến, dẫn đến sự
hình thành nhiều thể chế khác nhau (các tổ chức Nhà nước sơ khai: Mường ở Việt
Nam, các công quốc ở Châu Âu,...). Tuy vậy ý thức liên minh về văn hoá, kinh tế,
chính trị và cộng đồng người trong một vùng lãnh thổ lớn hơn vẫn được duy trì.
* Dân tộc (xã hội Tư bản và xã hội Xã hội chủ nghĩa), gồm Minority Ethnic groupe và Etat
Ethnic/Nation - Loại hình cộng
đồng người của xã hội hiện đại. Cở sở của sự hình thành loại hình cộng đồng Dân tộc bao gồm: mối quan hệ kinh tế, mối liên
hệ văn hoá, mối liên hệ ngôn ngữ, mối liên hệ lãnh thổ, mối liên hệ ý thức tự
giác tộc người, rất chặt chẽ trong nôi bộ cộng đồng. Như vậy, Dân tộc là cộng đồng thống nhất bền
vững về kinh tế, ngôn ngữ, lãnh thổ, văn hoá và ý thức tộc người.
Mỗi dân tộc có thể bao gồm nhiều nhóm địa phương
khác nhau; song song và đồng hành bên cạnh dân
tộc, là các loại hình cộng đồng người tiền
dân tộc (bộ tộc, bộ lạc,..). Thường thì các loại hình tiền dân tộc này tồn tại ở các khu vực, các quốc
gia có trình độ kinh tế – xã hội kém phát triển hơn. Trong các xã hội hiện đại,
các cộng đồng dân tộc mới vẫn có thể đang trong quá trình hình thành. Đó là quá
trình tộc người ở xã hội hiện đại.
Dân tộc (Etat Ethnic/Nation) là gì
Ở Liên Xô, các nước Đông Âu, Trung Quốc, Cu Ba và Việt Nam,... đã từng tồn
tại trong thời gian khá dài, cách hiểu về Dân
tộc tư bản chủ nghĩa của J.V.
Stalin: Dân tộc là khối cộng đồng
người ổn định, hình thành trong lịch sử, dựa trên cơ sở cộng đồng về tiếng nói,
về lãnh thổ, về sinh hoạt kinh tế và về hình thành tâm lý, biểu hiện trong cộng
đồng về văn hóa (1).Gần đây,
do nhiều biến cố chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,... khái niệm dân tộc đã được hiểu như sau:
Thuật ngữ Dân tộc (Nation) xuất hiện, bắt nguồn từ tiếng
Latinh: Natio là cộng đồng người
có chung một thể chế chính trị, được thiết lập trên một lãnh thổ nhất định, được
điều khiển bởi một nhà nước (Nation - Etat). Cũng
có thể hiểu đó là một cộng đồng
nhân dân (people) ổn định được phát triển trong lịch sử, với một lãnh thổ
riêng, với một nền kinh tế thống nhất, với các đặc trưng văn hóa thống nhất,
cùng có tiếng mẹ đẻ thống nhất và được chỉ đạo bởi một nhà nước (Quan điểm này đã được đại đa số
tán đồng, kể cả Liên hợp quốc).
Thực tế, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác (trước J.V. Stalin) cũng tán đồng
quan điểm trên khi cho rằng, có dân
tộc Tư bản chủ nghĩa, đồng thời có dân
tộc Tiền Tư bản chủ nghĩa. Như vậy, theo các nhà Mác - xít, Dân tộc là một cộng đồng người hình
thành từ các bộ lạc, mà liên minh bộ lạc là bước khởi đầu. Dân tộc ra đời cùng
với sự xuất hiện của nhà nước. Theo
đó, rõ ràng có nhiều loại dân tộc: dân
tộc Chiếm nô, dân tộc Phong kiến, dân tộc Tư bản, dân tộc Xã hội chủ nghĩa,…
Trong giới khoa học, đã từng tồn tại nhiều ý kiến cho rằng, dân tộc hình thành từ thời Chiếm nô hoặc Phong
kiến (các xã hội có giai cấp Tiền Tư bản). Ở Việt Nam, sau năm 1954, dựa theo định
nghĩa Dân tộc của J.V. Stalin, thảo luận về sự
hình thành Dân tộc Việt Nam được khởi đầu từ 1955 và kéo dài suốt hàng chục năm (đến
1965). Các quan điểm đều
xoay quanh vấn đề: ở Việt Nam,
khi nào cộng đồng dân tộc hình thành; dân
tộc Việt Nam có phải là một cộng
đồng tộc người thuộc loại hình dân
tộc hay không? Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: dân tộc ở Việt Nam hình thành từ thời kỳ Hùng Vương, tức
là nó hình thành ngay từ trong xã hội Chiếm nô (trước xã hội Phong kiến). Về việc
dân tộc Việt Nam có phải là một cộng đồng tộc người thuộc loại hình dân tộc hay
không, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, đó là loại hình cộng đồng người thuộc Etat Ethnic/Nation. Theo cách
hiểu này, Dân tộc ngoài các yếu tố cấu thànhngôn ngữ,
văn hoá, tự giác tộc người,… còn
bao hàm cả các yếu tố chính trị,
thể chế. Khái niệmdân tộc,
trong trường hợp này còn bao gồm cả các yếu tố: cộng đồng chính trị, thể chế xã hội.
Như vậy, Dân tộc Việt Nam (Etat Ethnic/Nation) bao gồm nhiều tộc người khác nhau liên kết lại, hay nói
cho đúng hơn, Dân tộc Việt Nam là khối cộng đồng quốc gia bao gồm
nhiều dân tộc/tộc người (Minority Ethnic groupe ) hợp lại. Cần chú ý thêm, vào những
năm trước 1975 ở miền Nam Việt Nam đã từng tồn tại khái niệm Sắc tộc. Vậy sắc tộc là gì. Trước tiên phải khẳng định
thuật ngữ này chỉ tồn tại dười thời chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam Việt
Nam. Khi đó nó được dùng để chỉ các dân tộc thiểu số ở khu vực Trường Sơn -Tây
Nguyên là chính (2).
Tộc người (Ethnie/Ethnic) là gì
Thuật ngữ tộc người xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ
XIX, ban đầu nó được dùng để chỉ các nhóm tộc người (groupe ethnie), hay
đơn vị tộc người (unité Ethnie). Trong Dân tộc học, khi đó Ethnie tương ứng như ethnic, ethnos, ethikum, ethnea,… Cho đến khoảng những năm Sáu mươi
của thế kỷ XX, thuật ngữ Ethnie mới được sử dụng rộng rãi, kể cả ở
Liên Xô (Hiến pháp Liên Xô 1977 dùng Ethnos thay cho bộ tộc, bộ lạc,…). Tuy vậy, trong thực tiễn cũng như khoa
học Nation và Ethnie/Ethnic không thể là một, mà đây là hai
khái niệm hoàn toàn khác nhau. Trong khi Dân
tộc (Nation) phải là một cộng đồng chính trị, bao gồm cư dân của một quốc gia
có chung một nhà nước, một chính phủ, có luật pháp thống nhất,…thì Tộc người(Ethnic/Ethnie) là cộng đồng mang tính tộc người,
không nhất thiết phải cư trú trên một cùng lãnh thổ, có chung một nhà nước, dưới
sự quản lý điều hành của một chính phủ với những đạo luật chung thống nhất.
Mặc dù các trường phái Dân tộc học có nhiều quan điểm khác nhau về tộc người, xong tất cả đều thống nhất: Tộc người chỉ các cộng đồng mang
tính tộc người bất kỳ, kể cả các cộng đồng tộc người chủ thể của các quốc gia,
và các cộng đồng tộc người thiểu số trong các quốc gia, vùng miền, không phân
biệt đó là cộng đồng tộc người tiến bộ, hay cộng đồng tộc người còn đang trong
quá tình phát triển.
Với nhận thức trên, trong thế giới hiện đại của chúng ta ngày nay, đang tồn
tại các loại hình cộng đồng dân
tộc và cộng đồng tộc người,...(3). Trên thế giới, đa số các quốc gia
đều làQuốc gia đa dân tộc, tức là cộng đồng cư dân ở đó gồm nhiều tộc người. Trong những
trường hợp này, khái niệm dân
tộc và tộc người trùng khớp nhau. Tuy vậy cũng có quốc gia chỉ có một
tộc người (Triều Tiên,…), trong trường hợp này dân tộc được hiểu là tộc người cũng không sai.
2. Tiêu chí xác định dân tộc (tộc người)
Để hiểu hơn về tộc người và dân tộc, có thể xem xét các tiêu chí khác đã được sử dụng để
xác định đã được sử dụng
trên thế giới và Việt Nam. Thế giới nói chung, đã từng tồn tại việc sử dụng 5
tiêu chí để xác định dân tộc: cùng tiếng mẹ đẻ (có ngôn ngữ tộc người thống
nhất); cùng một khu vực lãnh thổ (có lãnh thổ tộc người thống nhất); có nền
kinh tế tộc người thống nhất; có các đặc trưng văn hoá thống nhất/văn hoá tộc
người; có Ý thức tự giác tộc người thống nhất.
Các nhà Dân tộc học Xô Viết đã dùng bốn tiêu chí để xác định thành phần dân
tộc ở Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết: 1. Cùng cư trú trên
một phạm vi lãnh thổ nhất định; 2. Cùng nói một ngôn ngữ; 3. Có chung các đặc điểm văn hóa; 4. Có cùng ý thức dân tộc hay là tự
giác dân tộc.
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc rất chú trọng đến vấn đề nguồn gốc và lịch sử
của dân tộc trong xác định thành phần dân tộc ở đất nước của mình. Từ những năm
cuối thập kỷ năm mươi của thế kỷ
XX, các nhà khoa học Trung Quốc đã xác định ở nước này có 56 dân tộc, từ đó đến
nay không có gì thay đổi. Trong một thời gian dài, các nhà khoa học Trung Quốc
vẫn kiên trì theo định nghĩa dân
tộc của J. V. Stalin: Dân tộc là một cộng đồng người ổn định
được hình thành trong lịch sử có chung ngôn ngữ, lãnh thổ, đời sống kinh tế,
cùng chung một tố chất tâm lý biểu hiện trong cùng một văn hóa. Trong đó có
hai vấn đề tiên quyết: 1. Dân
tộc là một phạm trù lịch sử của thời đại Tư bản chủ nghĩa đang lên, trước Chủ
nghĩa Tư bản không thể có dân tộc; 2. Thiếu một trong 4 yếu tố (lịch sử,
ngôn ngữ, lãnh thổ, tâm lý) trên
cũng không thể xác định đó là một dân tộc.
Ở Việt Nam, tiêu chí xác định dân tộc bắt đầu được đề cập từ 1960. Năm 1973 tại Hà Nội đã tiến hành hai
cuộc Hội thảo khoa học (vào tháng 6 và tháng 11). Các hội thảo đã thống nhất lấy dân tộc (tộc người) làm đơn vị cơ bản
trong xác định thành phần dân tộc ở Việt Nam. Ba tiêu chí để xác định dân tộc/tộc
người, được thống nhất sử dụng:
(1). Có chung tiếng nói (ngôn ngữ mẹ đẻ)
(2). Có chung những đặc điểm
sinh hoạt văn hóa (đặc trưng văn hóa)
(3). Có cùng ý thức tự
giác, tự nhận cùng một dân tộc
Với các tiêu chí này, thành phần dân tộc ở Việt Nam khi đó được xác định
bao gồm 59 dân tộc. Trong đó ở miền Bắc có 36 dân tộc và ở miền Nam có 23 dân tộc.
Bảng danh mục này đã được đăng trong Các
dân tộc ít người ở Việt Nam, các tỉnh phía Bắc (NXB. KHXH, Hà Nội, 1978) và đăng
trong tạp chí Dân tộc học, số 1/ 1974.
Nhằm phục vụ Tổng điều tra
dân số cả nước 1979, vào
tháng 12/1978 bảng danh mục 54 dân tộc trong cả nước được Ủy ban KHXH Việt Nam
và Hội đồng Dân tộc trình Chính Phủ. Danh mục này được công nhận và sử dụng từ
đó đến nay. Theo danh mục này, các dân tộc Giẻ,
Ve, Triêng (kết hợp làm một), Hà lăng (nhập vào Xơ đăng), Xrê (nhập vào Cơ ho), Pú nà (nhập vàoGiáy), Thủy (nhập vào Pà thẻn), Tống (nhập vào Dao), Chăm hroi (nhập vào Chăm). Trong khi đó, tách Ngái ra khỏi Hoa, thành hai dân tộc là Hoa và Ngái, thêm 3 dân tộc mới là Chơ ro, Brâuvà Rơ măm, đồng thời xác định lại
một số tên gọi của các dân tộc: Pa
cô thành Tà Ôi, Ca tuthành Cơ tu, Cao lan - Sán chỉ thành Sán chay, Mèo thành Hmông(3).
3. Một vài nhận xét
Tộc người và dân tộc là hai khái niệm khác nhau, với thực tế
Việt Nam nhiều khi nó được dùng chung cho các khái niệm khác nhau: Cộng đồng
người Việt Nam (Dân tộc Việt Nam); hoặc cộng đồng tộc người chỉ là một
trong 54 dân tộc ở Việt Nam (Dân tộc Kinh, Dân tộc Ba na, Dân tộc Tày, Dân tộc
Chăm,…). Vì thế phải xác định rõ nội hàm của thuật ngữ Dân tộc trong các trường hợp cụ thể. Việc
xác định rõ nội hàm của thuật ngữ này sẽ là điều kiện tiên quyết khi xem xét những
vấn đề lý luận và thực tiễn của Công
tác dân tộc ở Việt Nam hiện
nay.
Với các tiêu chí xác định và danh mục các dân tộc đã được công bố, có thể
thấy: 1- Mặc dù chịu ảnh hưởng rất nhiều từ nền dân tộc học Xô Viết và Trung Quốc,
nhưng chúng ta đã không dùng các tiêu chí không phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam
để xác định thành phần các dân tộc (lãnh thổ, nguồn gốc, dân số). 2- Cho đến
nay, danh mục các dân tộc ở Việt Nam đã được công bố vào năm 1979, là kết quả
nghiên cứu nghiêm túc, khách quan, và chính xác, nên nó hoàn toàn phù hợp với
việc thực hiện các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng
và Nhà nước, mặc dù, vẫn còn một vài nhóm địa phương cần được xem xét lại.
Không chỉ trong xã hội truyền thống mà ngay cả trong xã hội hiện đại, quá
trình tộc người vẫn liên tục diễn ra, dưới sự tác động của các điều kiện lịch sử,
kinh tế, xã hội,… nhất định. Ở Việt Nam (cũng như trên Thế giới), thông qua tiếp
xúc tộc người về mọi phương diện, văn hóa của các tộc người bị biến đổi. Sự biến
đổi ấy có thể làm cho văn hóa các tộc người phát triển phong phú thêm, nhưng
cũng có thể bị mai một. Các hiện tượng trên đã dẫn đến các xu hướng phát triển
tộc người, biến đổi văn hóa tộc người ở nước ta hiện nay như sau:
- Hòa hợp tộc người và văn
hóa
- Bảo lưu, duy trì văn hoá truyền thống và cố kết tộc người
- Mai một văn hoá, mất bản sắc văn hóa tộc người.
Ngay từ khi ra đời, Dân tộc học Việt Nam đã góp phần tích cực vào việc làm
sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn tộc người, thành phần dân tộc và nghiên
cứu văn hóa các dân tộc ở nước ta. Bằng chứng cụ thể là việc xác định và lập
danh mục thành phần dân tộc ở Việt Nam qua các thời điểm cụ thể; cung cấp các
luận chứng khoa học cho việc xây dựng và triển khai các chính sách dân tộc,
chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của các dân tộc, ở các giai
đoạn cụ thể. Thực tiễn cho thấy, tộc người, dân tộc là các khái niệm có tính lịch sử, bởi
thế mỗi giai đoạn cụ thể có thể nó sẽ được nhận thức khác nhau đôi chút. Vì thế,
danh mục thành phần dân tộc ở Việt Nam ở từng giai đoạn cũng có thể có những điều
chỉnh. Nhưng rõ ràng, nó đang được nhận thức ngày càng toàn diện, đầy đủ và
chính xác.
Trần Bình
Chú thích:
1.
J.V. Stalin, Chủ nghĩa Mác và
vấn đề dân tộc, NXB. Sự thật,
Hà Nội, 1957
2.
Tài liệu số 3, tr.32-33.
3.
Tài liệu số 8, tr. 35
4.
Tài liệu số 5.
Tài liệu tham khảo:
1. Iu. V. Bromley (1973), Tộc người và Dân tộc học,
Maxcơva, (Bản dịch tiếng Việt,
TLTV Viện Dân tộc học).
2. S.I.
Bruc (1962), Các quá trình
phát triển tộc người và những phân loại tộc người (trong Dân số và phân bố dân tộc trên thế
giới), NXB.Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, Maxcơva, (Bản dịch tiếng Việt, TLTV Viện Dân tộc
học).
3. Phan
Hữu Dật (và các tác giả) (2001), Mấy
vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện
nay, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
4. Phan
Hữu Dật (1972), Cơ
sở Dân tộc học, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
5. Khổng
Diễn (1995), Dân số và dân số
tộc người ở Việt Nam , NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội.
6. Mạc
Đường (1997), Dân tộc học và vấn đề xác định thành phần dân tộc (lý thuyết -
nghiên cứu - tư liệu),NXB. KHXH, Hà Nội.
7. Trần
Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc
văn hóa Việt Nam , NXB. TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
No comments:
Post a Comment