CON NGƯỜI CHỈ THỰC SỰ CHINH PHỤC ĐƯỢC THIÊN NHIÊN KHI BIẾT CÁCH TUÂN THỦ NÓ

[Bài trích] Phát triển giáo dục vùng dân tộc thiểu số, cơ sở quan trọng để thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc

| | 0 nhận xét
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, nếu không có kiến thức thì không có thể bình đẳng với các dân tộc khác được”. Ở nước ta, trước năm 1945 thực dân, phong kiến thực hiện chính sách “ngu dân”, nên tỷ lệ mù chữ của nhân dân ta khi đó chiếm trên 90%. Sự nghiệp giáo dục của dân tộc ta chỉ bắt đầu được quan tâm, phát triển sau khi chính quyền về tay nhân dân (tháng 8-1945), với việc chỉ một ngày sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Đảng và Bác Hồ đã phát động toàn dân ta xoá nạn mù chữ. Với phong trào “bình dân học vụ” và sau một năm thực hiện, cả nước đã mở được 75.805 lớp học, có 97.664 người tham gia dạy học và đã có khoảng 2,5 triệu người biết đọc, biết viết. Đến nay, trải qua 63 năm nỗ lực “diệt giặc dốt”, trình độ học vấn của nhân dân ta đã có những bước phát triển tiến bộ vượt bậc.
Trong nhiều năm qua, Đảng và Chính phủ đã chú trọng đến công tác giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và đã thu được nhiều kết quả. Hệ thống giáo dục từ mầm non đến trung học phổ thông được củng cố và phát triển, đáp ứng cơ bản nhu cầu học tập của con em đồng bào các dân tộc. Hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú đã được chú trọng phát triển từ Trung ương tới địa phương. Ở Trung ương có 11 trường dân tộc nội trú, trung bình mỗi năm thu hút hơn 5 ngàn học sinh theo học. Trường phổ thông dân tộc nội trú cấp tỉnh có 48 trường, thu hút mỗi năm khoảng hơn 20 ngàn học sinh. Ở cấp huyện có 268 trường, thu hút khoảng hơn 60 ngàn học sinh theo học. Quan tâm, chăm lo đến sự nghiệp “trồng người”, nhiều địa phương vùng dân tộc thiểu số đã sáng tạo ra hình thức hệ thống trường bán trú dân nuôi ở bậc phổ thông cơ sở, đó là sự kết hợp giữa Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp “trồng người” và đã xây dựng được hơn 700 trường bán trú dân nuôi cụm xã và bán trú xã, tiếp nhận được hơn 70 ngàn học sinh theo học. Hệ thống các trường dự bị đại học và các khoa dự bị đại học dân tộc đang được phát triển cả về quy mô đào tạo và cơ sở vật chất. Các chương trình dạy tiếng dân tộc cho học sinh dân tộc thiểu số bước đầu được quan tâm. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã biên soạn được một số bộ sách giáo khoa dạy chữ viết cho các dân tộc Khmer, Mông, Mnông, Bana, Êđê, Chăm, Hoa... Nhiều tỉnh đã xây dựng chương trình dạy song ngữ tiếng phổ thông và tiếng dân tộc thiểu số trong nhà trường, như các tỉnh: Sóc Trăng, Hậu Giang, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Đắc Lắc, Gia Lai, Yên Bái, Lào Cai...Chế độ cử tuyển học sinh dân tộc thiểu số vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp đang được thực hiện và đã đạt kết quả bước đầu. Với chính sách cử tuyển, nhiều dân tộc thiểu số lần đầu tiên có con em được cử tuyển vào các trường trung cấp, cao đẳng, đại học, như các dân tộc: Hà Nhì, Cơ Lao, Pà thẻn, Kháng, Xinh Mun, Bố Y, Lào... Chỉ tiêu cử tuyển cho học sinh các dân tộc thiểu số sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học ngày càng tăng, mỗi năm trung bình cả nước có khoảng hơn 3 nghìn học sinh các dân tộc thiểu số được đi học theo chế độ cử tuyển ở các trường trung cấp, cao đẳng và đại học. Tính ưu việt trong chính sách phát triển giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số của Đảng, Nhà nước cùng với những thành tựu đã đạt được của sự nghiệp giáo dục ở vùng dân tộc là điều không thể phủ nhận được.
Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ hội nhập khu vực và quốc tế, đồng thời nhằm thực hiện chính sách “Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các dân tộc”, xoá dần khoảng cách chênh lệch về giáo dục giữa “miền ngược và miền xuôi”, đòi hỏi công tác giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số phải tiếp tục được quan tâm, đầu tư hơn nữa. Nhưng thực tế sự chênh lệch vẫn còn quá lớn, công tác phát triển giáo dục ở những vùng dân tộc khó khăn vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, tỷ lệ mù chữ, tái mù chữ trong đồng bào còn khá cao; một số dân tộc thiểu số ít người như Brâu, Rơ măm, Si La, Xinh Mun, Chứt... tỷ lệ người có trình độ học vấn cao là rất thấp, dân tộc Brâu thậm chí vẫn chưa có người đi học đại học. Hiện nay, nói đến đồng bào các dân tộc thiểu số không ít người còn đánh đồng dân tộc thiểu số với trình độ văn hoá thấp kém, thậm chí còn mang tính miệt thị, gây hiểu lầm, ảnh hưởng đến chính sách đoàn kết giữa các dân tộc. Do nhiều nguyên nhân, như: đói nghèo, địa bàn cư trú và cơ sở hạ tầng còn nhiều khó khăn, yếu kém nên không tránh khỏi ảnh hưởng đến việc học tập, nâng cao trình độ dân trí, nhận thức và sự hiểu biết chưa đầy đủ về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; dễ tin và nghe theo kẻ xấu lừa phỉnh gây mất ổn định an ninh chính trị ở địa phương. Chính vì vậy, việc nâng cao trình độ dân trí cho bà con vùng đồng bào dân tộc thiểu số càng là vấn đề cấp thiết.
Để nâng cao trình độ học vấn cho mọi người dân, đòi hỏi phải có sự quan tâm của Nhà nước bằng việc mở thêm trường, lớp, đào tạo giáo viên, đặc biệt đội ngũ giáo viên là người dân tộc tại chỗ, ngay tại miền núi, vùng sâu, vùng xa là nơi đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Chỉ có như vậy, mới có thể nói đến công tác phát triển giáo dục, nâng cao trình độ học vấn của đồng bào các dân tộc thiểu số. Trình độ học vấn của đồng bào các dân tộc thiểu số hiện nay thấp hơn trình độ học vấn chung là do chính sách trong giáo dục của Nhà nước chưa quan tâm đầy đủ và đầu tư chưa thoả đáng cho sự nghiệp giáo dục ở vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Biểu hiện cụ thể là, chưa thực sự quan tâm đúng mức từ chương trình sách giáo khoa, phương pháp giáo dục và dạy học đến chính sách đối với giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Đội ngũ giáo viên đã thiếu về số lượng lại yếu về chuyên môn, chính sách đãi ngộ, sử dụng đối với đội ngũ giáo viên dạy ở các vùng dân tộc thiểu số còn nhiều bất hợp lý, chưa tạo ra được động lực về vật chất và tinh thần để khuyến khích, thu hút giáo viên có tâm huyết với nghề, với sự phát triển sự nghiệp giáo dục ở các vùng dân tộc. Một trong những yếu tố làm hạn chế sự phát triển giáo dục ở nhiều vùng dân tộc mà ngành giáo dục chưa quan tâm thoả đáng là vấn đề bất đồng ngôn ngữ trong quá trình dạy và học. Trẻ em chưa thông thạo tiếng mẹ đẻ đã phải học tiếng phổ thông. Vì học không hiểu, học kém, thua bạn bè, gây ra tâm lý chán nản, sợ phải học, sợ phải đến trường nên bỏ học, dẫn đến tình trạng mù chữ và tái mù chữ.
Một vấn đề luôn là câu hỏi đối với đồng bào các dân tộc thiểu số là “học để làm gì”? Điều này có liên quan trực tiếp đến việc các gia đình có quyết định cho con đi học hay không. Chính vì đa số đồng bào các dân tộc thiểu số còn chưa nhận thức thấy lợi ích của việc học tập, nên họ chưa quan tâm cho con em đi học. Hiện nay, bên cạnh việc nâng dần tỷ lệ con em người dân tộc thiểu số được đào tạo cao đẳng, đại học thì việc đào tạo nghề đối với học sinh học xong trung học cơ sở và trung học phổ thông là vấn đề cốt lõi cho công tác phát triển giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số. Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu tiên đối với con em đồng bào các dân tộc trong sự nghiệp giáo dục, nhất là đầu tư cho giáo dục phổ thông, nhưng hiện nay tình trạng không ít học sinh người dân tộc thiểu số ra trường không có việc làm, một số lại không muốn trở về địa phương công tác cũng đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến cơ chế, chính sách, tâm lý chung của đồng bào. Vấn đề đặt ra là, phải có những giải pháp đồng bộ thì công tác giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số mới có thể đáp ứng được yêu cầu trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở vùng này.
Có thể khẳng định, trình độ học vấn của đồng bào các dân tộc thiểu số chưa được nâng cao là sự trăn trở của Đảng, của Chính phủ trong nhiều năm qua. Giáo dục luôn là vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia, dân tộc, vì nó là cơ sở tạo ra những con người có tài năng, có trí tuệ, nguồn nhân lực quyết định đến sự thịnh suy, sự phát triển chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của một đất nước. Sự lạc hậu và kém phát triển của một dân tộc, một quốc gia biểu hiện trước hết ở sự lạc hậu và kém phát triển của nền giáo dục. Đặc biệt là trong thời đại của khoa học, công nghệ hiện nay, khi mà hàm lượng chất xám chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong các sản phẩm lao động, thì điều đó có nghĩa là dân tộc nào, quốc gia nào không coi trọng phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài sẽ không có cơ hội, điều kiện để vươn lên và tụt hậu là điều không tránh khỏi. Nói như vậy để thấy rằng, một trong những trở lực ngăn cản sự phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo của vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay là sự bất cập trong vấn đề giáo dục, nâng cao học vấn của đồng bào. Trình độ học vấn thấp đã hạn chế việc tiếp thu các kiến thức khoa học hiện đại, giảm hiệu quả việc thực hiện các chương trình, dự án của Nhà nước, hạn chế việc thực hiện các chính sách của Đảng, Nhà nước và nghĩa vụ của đồng bào với đất nước, với quê hương, với sự phát triển chung của cả dân tộc.
Chúng ta không thể chờ kinh tế phát triển mới phát triển giáo dục. Giáo dục phải đi trước một bước, cần vận dụng và phát huy kinh nghiệm phát triển sự nghiệp giáo dục trong những ngày đầu giành độc lập và khơi dậïy truyền thống hiếu học của nhân dân ta. Chính vì vậy, công tác phát triển giáo dục phải đi trước một bước, phải được đầu tư một cách khoa học, thỏa đáng, đặc biệt quan tâm, chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Nếu thực hiện tốt sẽ tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc thiểu số vươn lên hòa nhập cùng đồng bào cả nước và thực hiện quyền bình đẳng của mình về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Chỉ khi nào đồng bào dân tộc thiểu số có được một trình độ học vấn cao thì khi ấy họ mới có điều kiện để vượt qua nghèo nàn, lạc hậu và góp phần vào sự nghiệp chung của đất nước, mới có điều kiện để thực hiện nghĩa vụ của mình và cũng chỉ khi ấy các dân tộc thiểu số mới thực sự được bình đẳng. Do vậy, để đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số hiện nay, các cấp, các ngành cần quan tâm những vấn đề sau:
Một là, tăng nguồn đầu tư cho công tác phát triển giáo dục ở vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số có dân số ít. Phải có sự phối hợp đồng bộ giữa chính sách của Đảng và Nhà nước với hoạt động của ngành giáo dục và sự đóng góp của toàn dân cho sự nghiệp giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện xã hội hoá giáo dục để toàn dân cùng quan tâm đóng góp một cách thiết thực là một trong những biện pháp hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Hai là, nhanh chóng đào tạo được một đội ngũ giáo viên là người dân tộc thiểu số tại chỗ có trình độ cả về sư phạm và kiến thức cho từng vùng và với riêng từng dân tộc. Bên cạnh việc đào tạo, cần xây dựng chế độ đãi ngộ và sử dụng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, sao cho họ yên tâm với nghề nghiệp, gắn bó với sự nghiệp “trồng người” ở chính quê hương của họ.
Ba là, ngành giáo dục phải xây dựng chương trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học của từng dân tộc, từng vùng trên cơ sở tiếng, chữ viết phổ thông và tiếng, chữ viết riêng của từng dân tộc.
Bốn là, có chính sách đặc thù đối với con em đồng bào các dân tộc sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, nếu không thi được vào các trường trung cấp, cao đẳng, đại học thì bố trí cho đi học nghề. Có cơ chế, chính sách khuyến khích con em các dân tộc sau khi tốt nghiệp đại học, trung học chuyên nghiệp, học nghề trở về địa phương mình công tác để tránh lãng phí tiền của, công sức của bản thân học sinh, gia đình và xã hội, là nguồn nhân lực, lực lượng cốt lõi, cơ sở cho sự phát triển vùng dân tộc trong thời kỳ đất nước đổi mới , hội nhập quốc tế.

TÔ VĂN VỸ - Phó Tổng Biên tập Tạp chí Mặt trận.

>> Tạp chí Mặt trận số 59 (9-2008)

No comments:

Post a Comment

Ghi rõ nguồn sachvn247.blogspot.com khi phát hành lại thông tin từ trang này
Copyright © 2011. sachvn247 - All Rights Reserved
Design by Namkna
Xem tốt nhất ở độ phân giải 1024 x 768 pixel