Vừa qua, Đoàn giám sát của Hội đồng dân tộc Quốc hội
đã giám sát kết quả thực hiện các mục tiêu của Chương trình mục tiêu quốc gia
về văn hoá 2006-2010 theo Quyết định 125/2007/QĐ-TTg ngày 31/7/2007 của Thủ
tướng Chính phủ tại tỉnh Hà Giang. Qua giám sát cho thấy, tỉnh Hà Giang đã tích
cực tổ chức thực hiện Chương trình theo từng dự án cụ thể, kết quả đã đạt được:
1. Dự án chống xuống cấp và tôn
tạo các di tích lịch sử, cách mạng và kháng chiến: Có 11 di tích được xếp hạng,
trong đó 03 di tích được đầu tư tôn tạo bằng nguồn đầu tư phát triển của Chương
trình là: Di tích Kỳ đài Thị xã Hà Giang; Di tích Chùa Bình Lâm xã Phú Linh,
huyện Vị Xuyên; Khu di tích lịch sử cách mạng Tiểu khu Trọng Con xã Bằng Hành,
huyện Bắc Quang.
2. Dự án sưu tầm và bảo tồn các
giá trị văn hoá phi vật thể: Trong 4 năm tỉnh Hà Giang đã tổ chức thực hiện sưu
tầm, phục dựng, bảo tồn giá trị 4 dự án văn hoá phi vật thể: Bảo tồn phát huy
các làn điệu dân ca dân tộc Tày; Lễ cầu mưa của dân tộc Pà Thẻn; Dân ca dân tộc
Nùng U; Lễ hội Gàu tào của dân tộc Mông. Trong đó có 3 dự án đã hoàn thành
nghiệm thu và sản phẩm đã được lưu tại Ngân hàng dữ liệu văn hoá phi vật thể
tại Viện văn hoá nghệ thuật Việt Nam.
3. Dự án điều tra, bảo tồn một
số làng, bản, buôn tiêu biểu và lễ hội truyền thống đặc sắc của dân tộc Lô Lô
Chải xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn với số vốn đầu tư 2,5 tỷ đồng để triển khai các
hạng mục sau: Xây dựng thiết chế, tụ điểm sinh hoạt văn hoá cộng đồng; Bảo tồn
tôn tạo 3 ngôi nhà có kiến trúc cổ của dân tộc Lô Lô; Xây dựng kè bê tông bờ hồ
tạo cảnh quan môi trường sinh thái; Bảo tồn văn hoá, nghệ thuật dân gian và
nghề thủ công truyền thống gồm: Củng cổ, thành lập, huấn luyện đội văn nghệ dân
gian; Phục dựng một số loại hình sinh hoạt văn nghệ dân gian; Bảo tồn lễ cúng
Thần rừng; Bảo tồn lễ cúng lúa mới, ngô mới; Bảo tồn lễ nghi sinh nở; Bảo tồn
lễ nghi đám cưới; Bảo tồn nghi lễ đám tang; Bảo tồn nghề truyền thống (nghề
thêu, dệt trang phục); Phục chế 3 đội trống đồng cổ Lô Lô; Trình diễn nghệ
thuật đúc trống đồng và diễn tấu sử dụng trống đồng.
Đồng thời tỉnh đã tổ chức Lễ
hội Cầu Trăng của dân tộc Ngạn tại huyện Bắc Quang.
4. Dự án nâng cao năng lực phổ
biến phim; đào tạo nâng cao trình độ sử dụng công nghệ hiện đại trong phổ biến
phim: Hà Giang có 12 đội chiếu bóng lưu động trong đó Văn phòng Trung tâm Phát
hành phim và chiếu bóng tỉnh 01 đội; 11 đội tại các huyện, thị trong tỉnh. Có
02 bộ máy chiếu phim âm thanh lập thể được trang bị; 01 bộ máy chiếu 300inch; 3
bộ máy chiếu phim 35 mm và 7 bộ máy video 100 inch. Các đội chiếu bóng lưu động
đã tổ chức vừa kết hợp công tác tuyên truyền vừa chiếu phim phục vụ đến thôn,
bản các xã trên địa bàn toàn tỉnh. Đáp ứng nhu cầu hưởng thụ Văn hoá, sinh hoạt
của nhân dân, đảm bảo hoàn thành và vượt mức chỉ tiêu kế hoạch hàng năm.
5. Dự án tăng cường đầu tư xây
dựng, phát triển hệ thống thiết chế văn hoá thông tin cơ sở vùng sâu, vùng xa:
Trang cấp thiết bị cho: 08 đội
thông tin lưu động cấp huyện, thị xã; Nhà văn hoá cấp tỉnh; Cấp thiết bị hỗ trợ
biểu diễn nghệ thuật văn nghệ thường xuyên trong chương trình hoạt động của Ban
chỉ đạo toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá cấp tỉnh; cho 10 Nhà văn
hoá cấp huyện, thị xã, 22 nhà văn hoá xã, phường, thị trấn; 40 nhà văn hoá thôn
bản (làng văn hoá) và 6 xe ô tô thông tin lưu động. Hầu hết các trang thiết bị
âm thanh, ánh sáng, nhạc cụ kể cả ô tô đều đảm bảo chất lượng, hoạt động phục
vụ có hiệu quả đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương, nhu cầu
sinh hoạt văn hoá của nhân dân, góp phần thúc đẩy và phát triển sự nghiệp của
ngành. Tuy nhiên, còn có bất cập đó là với danh mục thiết bị và định mức vốn
qui định của Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch chưa tương xứng với tình hình giá
cả thị trường dẫn đến chất lượng thiết bị phục vụ ở cơ sở công suất nhỏ, độ bền
chưa cao. Hà Giang hiện có 597 người làm công tác văn hoá thể thao cơ sở từ
tỉnh đến xã. Hầu hết số cán bộ làm công tác văn hoá thể thao cơ sở đã đựợc đào
tạo trình độ từ Trung cấp trở lên, đều có tinh thần trách nhiệm, khắc phục khó
khăn để tổ chức các hoạt động, thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ được giao.
6. Dự án xây dựng huyện điểm
văn hoá, xã điểm văn hoá triển khai hiệu quả phong trào toàn dân đoàn kết xây
dựng gia đình văn hoá:
Số làng, bản đạt tiêu chuẩn văn
hoá: 1.465/2.041 làng, bản, khu phố. Trong đó 29 làng được hỗ trợ trang thiết
bị âm thanh phục vụ từ chương trình mục tiêu văn hoá. Số gia đình đạt chuẩn văn
hoá là 36.436/130.000 gia đình. Trong đó có 56 gia đình được Ban chỉ đạo Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá tỉnh Hà Giang khen thưởng nhân dịp tổng
kết 10 năm thực hiện phong trào. Xây dựng huyện Bắc Quang là huyện điểm văn hoá
với kết quả hoàn chỉnh việc rà soát, thống kê đánh giá hệ thống thiết chế Nhà
văn hoá xã, thôn bản, khu dân cư. Tiến hành qui hoạch đất tại các xã, thị trấn
phục vụ cho việc đầu tư xây dựng các thiết chế văn hoá (Nhà văn hoá; thư viện,
nhà truyền thống, sân vận động, công viên, khu vui chơi giải trí, các khu du
lịch, rạp chiếu phim…). Củng cố phát triển 23 đội văn nghệ quần chúng cấp xã,
gần 200 đội văn nghệ dân gian thôn bản; 8 phòng đọc tủ sách cấp xã, 100% thôn
bản xây dựng qui ước nếp sống văn hoá. Tổ chức điều tra, sưu tầm, duy trì và
phục dựng các loại hình văn nghệ dân gian, lễ hội truyền thống trong kho tàng
văn hoá phi vật thể của các dân tộc trong huyện. Lập hoàn chỉnh hồ sơ, tổ chức
thi công trùng tu, tôn tạo bảo tồn di tích cách mạng Khu Trọng Con đã được xếp
hạng; Dự án du lịch Hồ Quang Minh.
7. Dự án trang cấp thiết bị và
sản phẩm văn hoá thông tin cho đồng bào các dân tộc thiểu số, tuyến biên giới
là các sản phẩm văn hoá thông tin: sách, băng nhạc, băng video, tranh ảnh đã
cấp cho các xã đặc biệt khó khăn, các xã khu vực III, Trường dân tộc nội trú.
Việc sử dụng các sản phẩm đã góp phần làm thay đổi nhận thức của cán bộ và nhân
dân các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn trong phát triển sản xuất,
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần. Tăng cường tình đoàn kết giữa các dân
tộc.
8. Dự án củng cố, phát triển hệ
thống thư viện công cộng:
Hà Giang hiện có 120 thư viện
phòng đọc. Trong đó có 2 thư viện thuộc 2 huyện Bắc Quang và Vị Xuyên được đầu
tư xây dựng từ nguồn vốn chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá. Còn lại 9
huyện, thị xã chưa được đầu tư xây dựng Thư viện mà chỉ được bố trí một phần:
diện tích thuộc trụ sở Trung tâm Văn hoá Thể thao huyện, thị làm nơi tổ chức hoạt
động của thư viện.
Có 42.800 bản sách do Bộ Văn
hoá Thể thao và Du lịch cấp đã được Thư viện tỉnh tiếp nhận, phân loại và phân
bổ cho thư viện các huyện, thị xã tổ chức hoạt động phục vụ nhu cầu đọc sách,
nhu cầu thông tin qua sách của cán bộ và nhân dân các địa phương.
9. Xây dựng tụ điểm sinh hoạt
văn hoá làng, bản vùng có hoàn cảnh đặc biệt: Hà Giang được đầu tư xây dựng 02
tụ điểm: Tụ điểm sinh hoạt văn hoá thôn Nàn Ma xã Nàn Ma huyện Xín Mần và Tụ
điểm sinh hoạt văn hoá thôn Mỹ Bắc, xã Tân Bắc, huyện Quang Bình. Ngay sau khi
hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng, tụ điểm sinh hoạt văn hoá thôn Nàn Ma đã
phát huy tác dụng phục vụ, thường xuyên tổ chức tuyên truyền, sinh hoạt, họp
dân và tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao không chỉ giành riêng
cho thôn mà tụ điểm được xác định là trung tâm tổ chức các hoạt động giao lưu
với các thôn trong xã và các xã lân cận.
Hiệu quả hoạt động của tụ điểm
trên đã gây dựng được phong trào văn hoá, văn nghệ, thể thao, góp phần nâng cao
mức hưởng thụ văn hoá, đồng thời để đồng bào các dân tộc phát huy tốt vốn văn
hoá, văn nghệ dân gian, các môn thể thao dân tộc mang tính tích cực nhằm củng
cố không ngừng tình đoàn kết giữa các dân tộc, đẩy lùi các hủ tục lạc hậu, tệ
nạn xã hội, nâng cao dân trí, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước để phát
triển kinh tế-xã hội, xoá đói giảm nghèo ngay từ cơ sở.
Đoàn giám sát đã đánh giá tổng
quát những mặt được:
Hà Giang đã thực hiện khá tích
cực việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc ít người
đã tạo điều kiện cho dân tộc thiểu số giữ gìn và phát triển vốn văn hoá truyền
thống; đồng thời hỗ trợ thúc đẩy chiến lược phát triển văn hoá-du lịch của tỉnh
vùng biên giới. Hỗ trợ đầu tư cho việc trùng tu, tôn tạo di tích nhằm thể hiện
nguyên trạng di tích gốc phục vụ cho công tác tuyên truyền, giáo dục; tôn vinh
lịch sử của dân tộc với nhân dân đồng thời phục vụ cho hoạt động nghiên cứu,
đáp ứng nhu cầu của khách thăm quan trong và ngoài nước. Tỉnh đã quan tâm đầu
tư có trọng tâm, trọng điểm phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, nhằm không
ngừng cải thiện đời sống vật chất, sinh hoạt tinh thần, góp phần thúc đẩy sự
nghiệp văn hoá, thể thao và du lịch của địa phương ngày càng phát triển, tích
cực thực hiện phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, xoá đói
giảm nghèo, phát triển kinh tế-xã hội. Chương trình mục tiêu quốc gia theo
Quyết định 125 của Thủ tướng Chính phủ đã được tỉnh Hà Giang triển khai nghiêm
túc từ tỉnh đến cơ sở thể hiện ở các nội dung:
Tích cực thực hiện điều tra, rà
soát tính đặc thù văn hoá dân tộc; điều tra di sản, hiện vật, đặc điểm mang
tính lịch sử văn hóa của tỉnh, quốc gia và quốc tế.
Sưu tầm bảo tồn văn hóa của các
dân tộc thiểu số ở Hà Giang.
Đã chú ý chăm lo các điển hình
về lễ hội; hướng dẫn xây dựng hương ước cơ sở; phát huy tốt vai trò tích cực
của nhân dân trong thực hiện chương trình văn hóa nên đã đạt được những kết quả
rất rõ nét.
Những nội dung trên đã góp phần
quan trọng tạo ra hiệu quả tổng hợp như sau:
Nâng cao được nhận thức cho
cáctầng lớp nhân dân, các cơ quan nhà nước về trách nhiệm của mình trong xây
dựng đời sống văn hóa của đồng bào các dân tộc; xây dựng được tính tự tôn tự
hào về các dân tộc; đã gắn kết văn hóa với phát triển kinh tế. Trong sinh hoạt
đời sống, đối nhân xử thế giữa người với người đã tốt hơn; tăng cường niềm tin
của nhân dân với Đảng và Nhà nước; là nhịp cầu nối giữa các dân tộc nhận thức
của đồng bào ngày càng nâng cao, quý trọng dân tộc mình, tự tôn và tự hào về
dân tộc mình.
Tuy vậy còn một số tồn tại:
Nhận thức ở một số cấp uỷ,
chính quyền cơ sở chưa đầy đủ; chưa quan tâm đến môi trường văn hoá, đặc biệt
là việc đầu tư phát triển thiết chế văn hoá cơ sở đã được phân cấp và việc củng
cố phát triển hệ thống thư viện công cộng, trình dộ dân trì của một bộ phận
đồng bào các dân tộc vẫn còn hạn chế (hạn chế việc tiếp thu cái mới, bài trừ
các thủ tục lạc hậu…) Một số nơi, nhận thức của nhân dân về việc được đầu tư
bảo tồn văn hoá truyền thống phi vật thể chưa xác định rõ cho quá trình bảo lưu
giữ gìn và phát huy giá trị. Do vậy, còn có tư tưởng trông chờ vào sự đầu tư
của nhà nước nên việc thực hiện xã hội hoá công tác bảo tồn còn yếu kém. Số đầu
điểm di tích được đầu tư ít, lượng kinh phí được giao còn thấp chưa phù hợp với
sự biến động giá của thị trường và điều kiện vùng thực hiện các dự án. Hầu hết
hoạt động tu bổ, tôn tạo, chống xuống cấp các di tích đều liên quan chủ yếu đến
hoạt động xây dựng, do vậy nguồn cấp của chương trình giao theo nguồn ngân sách
sự nghiệp nảy sinh vướng mắc trong quá trình giải ngân. Nội dung sinh hoạt văn
hoá tại các nhà văn hóa cộng đồng chưa rõ; phát huy nhà bưu điện văn hóa chưa
tốt. Cơ chế chính sách để phát huy nội lực trong xây dựng cơ sở hạ tầng cho nhà
văn hóa, trong bảo tồn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc chưa rõ. Kết quả bảo
tồn văn hóa dân tộc chưa rõ nét; chưa rõ được việc bảo tồn các lễ hội văn hóa
và việc lồng ghép với các chương trình dự án khác trong thực hiện các mục tiêu
về văn hóa.
Đoàn giám sát kiến nghị:
1. Đối với Bộ Văn hoá Thể thao
và Du lịch, với trách nhiệm là cơ quan Trường trực của Chương trình: Tiếp tục
quan tâm đầu tư cho các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung và tỉnh Hà Giang nói
riêng, trong đó phát triển tụ điểm sinh hoạt văn hoá vùng đặc biệt khó khăn,
vùng dân tộc thiểu số ít người, vùng biên giới là hết sức cần thiết. Nguồn vốn
cho Dự án bảo tồn di sản văn hoá (trung tu, tôn tạo di tích) cần phân bổ theo
nguồn đầu tư phát triển, để tránh vướng mắc quá trình giải ngân. Nghiên cứu
điều chỉnh định mức thiết bị cấp cho mục tiêu xây dựng đời sống văn hoá cơ sở,
phù hợp với thị trường, đảm bảo quá trình phục vụ. Tiếp tục đâu tư để hoàn
chỉnh các hạng mục của dự án đã được phê duyệt (thay đổi chất lợp 35 ngôi nhà
từ mái phibơro xi măng sang lợp ngói máng địa phương) và phục dựng một số lễ
hội đặc sắc tiêu biểu của dân tộc thiểu số như: Lễ hội Gầu tào của dân tộc
Mông, Lễ hội Quýas híeng của dân tộc Dao đỏ...
2. Đối với địa phương: Tiếp tục
làm tốt hơn công tác rà soát, đánh giá đặc điểm lịch sử văn hóa dân tộc gắn với
điều kiện tự nhiên nơi sinh sống. Duy trì và có chính sách khuyến khích các tổ
chức, cá nhân phát triển văn hóa hòa nhịp chung với cả nước. Tạo dựng nghệ
thuật văn hóa dân tộc và có chính sách nhân rộng trên địa bàn. Xây dựng thiết
chế làng bản văn hoá. Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực. Kết hợp văn hóa với
kinh tế và bảo vệ môi trường. Đối với các nghệ nhân: Hàng năm nên tổ chức hội
nghị biểu dương, có khen thuởng. Xã hội hóa mạnh mẽ hơn nữa việc thực hiện
chương trình văn hóa./.
TS. Lê Hải Đường
No comments:
Post a Comment