CON NGƯỜI CHỈ THỰC SỰ CHINH PHỤC ĐƯỢC THIÊN NHIÊN KHI BIẾT CÁCH TUÂN THỦ NÓ

[Bài trích] Về tính hình tượng và tính biểu tượng trong tác phẩm văn hóa - nghệ thuật

| | 0 nhận xét
Biểu tượng và hình tượng là hai biểu hiện tồn tại trong cùng một tác phẩm - thuộc phạm trù nghệ thuật. Chúng có mối tương quan và gắn bó khá chặt chẽ với nhau trong quá trình hình thành nên tác phẩm nghệ thuật. Hai khái niệm này trong thực tế vẫn tồn tại và hay được dùng lẫn lộn với nhau, mặc dù bản chất của chúng là khác nhau. Về phương diện ngôn ngữ học thì biểu tượng (Symbole) (1) và hình tượng (image) không phải là những từ đồng nghĩa. Mặc dù chúng đều là những ký hiệu (signe) nằm trong một văn bản nghệ thuật. 

          Tác phẩm nghệ thuật là đơn vị tồn tại của nghệ thuật, trong đó hình tượng nghệ thuật được coi như là "Tế bào"của tác phẩm. Không có hình tượng nghệ thuật thì không có cơ sở để tạo nên nội dung và hình thức của tác phẩm nghệ thuật.
          Tuy nhiên nghệ thuật chân chính không đòi hỏi các hình tượng nghệ thuật mô tả giống như thật vẻ bề ngoài của  đối tượng, mà cần phải phản ánh đúng cái bản chất bên trong của nó. Trên thực tế không thể có hình tượng "chết đứng" như Từ Hải trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du. Song hình tượng nghệ thuật này được mọi người công nhận. Bởi lẽ nó nói lên được những khát vọng chân chính của con người, thể hiện được sức mạnh chân lý của cuộc sống. Đó là những hình tượng nghệ thuật đã đạt đến tính biểu tượng (Symbolical).
          Khái niệm hình tượng nghệ thuật, nói lên phương thức chiếm lĩnh và  tái tạo hiện thực riêng biệt vốn có và chỉ có ở nghệ thuật. Bất cứ một sự vật, hiện tượng khách quan nào nếu được xây dựng lại một cách sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật đều trở thành hình tượng nghệ thuật; thông thường và quan trọng nhất là  "hình tượng nhân vật".
          Trước thế kỷ 19, phạm trù "hình tượng" chưa xuất hiện trong tư tưởng mỹ học ở Việt Nam. Lý luận về hình tượng nghệ thuật mới được tiếp nhận vào giữa thế kỷ 20, chủ yếu từ nguồn mỹ học phương Tây, trước hết là của học thuật Xô Viết. So với các khái niệm tương đương của Châu Âu thì khái niệm "hình tượng" (obraz) của mỹ học Xô viết còn rất đa nghĩa - vô số "tính hình tượng", thiếu sự phân hoá về các phạm vi sử dụng. Xu hướng chung ở đây là ưu tiên nghiên cứu về tính điển hình trong hình tượng nghệ thuật và cho đó là đặc trưng duy nhất của nghệ thuật.
          Ngược lại với học thuật Nga Xô viết, mỹ học Anh - Mỹ quan niệm : "Thuật ngữ "image(hình ảnh, hình tượng) có nghĩa hẹp và mang tính chuyên biệt (ví dụ không có "image" (tiếng Pháp) của thế giới và con người, chỉ có "imagecủa chi tiết sự vật, tình tiết mô tả, hoặc "imagenhư  một ẩn dụ). Toàn bộ các hàm nghĩa "hình tượngtrong thuật ngữ Nga được thể hiện bằng một loạt thuật ngữ Anh - Mỹ : "Symbol(mang nghĩa hình tượng nói chung, nhưng nhấn mạnh yếu tố ước lệ nghệ thuật; "copy" (sao chụp, nói về tính giống như thực của hình tượng); "fiction" (hình tượng hư cấu); "figure" (hình ảnh, như là sự chuyển nghĩa tu từ); "icon" (hình hiệu, kí hiệu tạo hình mô tả v.v..."(2).
          Lâu nay, giới nghiên cứu về nghệ thuật vẫn xem xét nghệ thuật dưới góc độ chung, góc độ triết học, nghĩa là xem xét nó như là một hình thái ý thức xã hội và  nhấn mạnh vào "tính hình tượng" xem đó là một trong những đặc trưng khu biệt của tác phẩm nghệ thuật.
Đặc trưng nghệ thuật của hình tượng được xác định không chỉ là nó phản ánh và giải thích thế giới thực tại mà còn là việc nó sáng tạo ra một thế giới mới - thế giới mang tính hư cấu. Ngoài bản chất nhận thức ra, hình tượng còn mang bản chất của sự sáng tạo. Hình tượng nghệ thuật là hệ quả của trí tưởng tượng trong tư duy của người nghệ sỹ.
Như vậy, nghệ thuật nhận thức và  tái hiện cuộc sống bằng hình tượng. Khác với những hình ảnh mơ hồ thuần tâm lý học, hình tượng nghệ thuật còn biến đổi sáng tạo trên chất liệu thực tại như màu sắc âm thanh, ngôn từ, hình ảnh v.v... tức là sự thể hiện một cách sinh động, cụ thể, cảm tính và mang tính nghệ thuật chứ không phải một cách trừu tượng bằng khái niệm như trong khoa học. Khoa học là tư duy lô-gích, thì nghệ thuật là tư duy hình tượng. Tính hình tượng trở thành đặc trưng cơ bản của nghệ thuật.
Hướng tiếp cận này xem nghệ thuật là một hoạt động nhận thức cuộc sống; một hình thái ý thức xã hội đặc thù, đề cao vai trò của "lý luận phản ánh" trong việc nghiên cứu nghệ thuật. Nó tập trung chú ý vào khái niệm hình tượng trong nghệ thuật xem đó là khái niệm then chốt, quan trọng, và là hình thức biểu hiện đặc trưng của mọi loại hình nghệ thuật. Đây là hướng tiếp cận đúng đắn và có giá trị, trong thời gian qua đã đem lại những kết quả tốt đẹp và đương nhiên sẽ còn phát huy tác dụng tích cực trong nghiên cứu nghệ thuật từ nay về sau.
Tuy nhiên, không nên xem hướng tiếp cận này là duy nhất, mà cần nên bổ sung, hoàn thiện bằng những thành tựu của các  cách tiếp cận khác, các phương pháp nghiên cứu khác. Bởi lẽ, việc tuyệt đối hoá đặc trưng hình tượng của nghệ thuật và dừng lại ở đây sẽ dẫn đến sự hiểu biết hời hợt và máy móc về "tính hình tượng" trong nghệ thuật. Và, từ đó sẽ dẫn đến quan điểm hình thức về hình tượng, tạo thành khuynh hướng minh hoạ do tình trạng công thức, cứng nhắc trong nhận thức cũng như trong sáng tạo nghệ thuật trong thời gian qua. Thực ra hình tượng của nghệ thuật không chỉ dừng lại ở giá trị thẩm mỹ mà cần vươn tới giá trị văn hoá (giá trị nhân bản). Quan niệm truyền thống  luôn quan tâm đến cội nguồn và động lực của sự sáng tạo nghệ thuật - tính tư tưởng trong nghệ thuật (văn học là nhân học – M.Gorki).
Dưới góc độ Văn hoá học thì nghệ thuật, trước hết là một hệ thống văn hoá, cũng giống như mọi hệ thống văn hoá khác (chẳng hạn hệ thống giao tiếp xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục, tập quán, nếp sống, lễ hội, ngôn ngữ, trò chơi, v.v...) là những thành tố làm nên một cơ cấu chung mà ta gọi là cơ cấu văn hoá. Song nghệ thuật không giống như những hệ thống văn hoá khác vì nó được cấu thành bởi những đặc trưng riêng - đặc trưng thẩm mỹ.
Nghệ thuật được xếp vào lĩnh vực văn hoá tinh thần, nhằm thoả mãn những nhu cầu tinh thần của con người. Nó thuộc hình thái ý thức xã hội, song là một hình thái mang đặc trưng thẩm mỹ. Nói khác đi, nghệ thuật, một mặt là một hệ thống văn hoá như bao hệ thống khác với những đặc tính chung nhất mà qua đó người ta có thể xác định được một hệ thống văn hoá- hệ thống các giá trị và chuẩn mực xã hội; mặt khác còn là một hệ thống văn hoá đặc biệt. Sự đặc biệt của nghệ thuật so với các hình thái ý thức xã hội khác được thể hiện ở chỗ nó tồn tại như một giá trị thẩm mỹ -  sự biểu hiện tập trung, đầy đủ và  sâu sắc nhất của quan hệ thẩm mỹ - một đặc trưng mà chỉ riêng nghệ thuật mới có.
Trong đời sống xã hội, giá trị thẩm mỹ và giá trị văn hoá thống nhất với nhau về nội dung tư tưởng, cái đẹp trước hết phải là cái thật và cái tốt (chân - thiện mỹ). Vì lẽ đó khi phản ánh các giá trị thẩm mỹ thì dù thế nào đi chăng nữa nghệ thuật vẫn luôn hàm chứa trong nó những giá trị văn hoá - giá trị nhân văn. Nghệ thuật tham gia vào các quan hệ thuộc lĩnh vực văn hoá dưới góc độ của quan hệ thẩm mỹ, đánh giá các hiện tượng đạo đức bởi góc độ của giá trị thẩm mỹ. Điều đó có thể nói lên được vì sao trong các tác phẩm nghệ thuật, các hình tượng nhân vật tích cực thường được coi như biểu tượng của cái đẹp, và ngược lại các hình tượng nhân vật tiêu cực, thường được gọi là biểu tượng của cái xấu, cái thấp hèn v.v....
Trong nghiên cứu nghệ thuật hiện đại đã có nhiều hướng tiếp cận khác nhau  như : Tâm lý học, Phân tâm học, Ngôn ngữ học, Văn hoá học, Ký hiệu học (semiologie) v.v... Hướng tiếp cận Văn hoá học và Ký hiệu học trong nghiên cứu nghệ thuật đã được nhiều người trong giới học thuật quan tâm.
Như trình bày ở trên, trong lòng của một cơ cấu văn hoá đã bao hàm hệ thống nghệ thuật và các hệ thống văn hoá khác như: lễ hội, nếp sống, ứng xử, trò chơi v.v... Và chúng đều có một đặc trưng chung nhất là "tính biểu tượng"(Symbolical). Do vậy, ngoài đặc trưng riêng của tác phẩm nghệ thuật là "tính hình tượng", thì nó còn hàm chứa cả "tính biểu tượng".
Có nhiều quan niệm về văn hoá, song nhìn chung, theo nghĩa hẹp, nó được chỉ định là toàn thể những sản phẩm tinh thần - mang "tính biểu tượng", do một xã hội sản xuất, và, để phân biệt được chúng với những sản phẩm khác của xã hội khác, thông thường người ta gọi chúng là "Tác phẩm văn hoá" (les oeuvres culturelles) (tiếng Pháp).
Theo quan niệm của H. Peretz : "Nói chung, những sản phẩm tinh thần này hiện ra dưới hình thức ngôn ngữ viết (văn chương, triết học); tín hiệu đồ hoạ (nghệ thuật tạo hình, kiến trúc) hoặc hình ảnh (nhiếp ảnh, điện ảnh); âm thanh (âm nhạc) v.v... Chúng là những sản phẩm tinh thần mang "tính biểu tượng", chừng mực, chúng tự phân biệt với các đồ vật khác bởi những giá trị (chuẩn mực đạo đức, chính trị hoặc thẩm mỹ) mà chúng chuyên chở, những giá trị mà con người đã gán cho chúng” (3).
Về hình thức biểu hiện, khi áp dụng cách phân loại theo Ký hiệu học đối với tác phẩm văn hoá, đó là những sản phẩm do một xã hội đã phân tầng sản xuất, bằng/ trong các phương tiện sau đây :
Ký hiệu - ngôn ngữ lời nói :  diễn ngữ, thành ngữ, tục ngữ, ca dao, hò vè, tri thức dân gian v.v... văn hoá truyền khẩu nói chung; ký hiệu - ngôn ngữ văn tự:  văn chương, thi ca, ký, câu đối v.v....; ký hiệu - ngôn ngữ tạo hình: hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc v.v...; Ký hiệu - ngôn ngữ hình thể :  Múa, xiếc, cử chỉ trong giao tiếp, hành động lễ thức v.v...; Ký hiệu - ngôn ngữ âm thanh: ca, hát, âm nhạc không lời; Ký hiệu - ngôn ngữ tổng hợp:  nghệ thuật sân khấu, điện ảnh, rối, lễ hội, trò chơi v.v..
Điểm quan trọng tạo thành đặc trưng chung nhất của "tác phẩm văn hoá" là nó sử dụng các hệ thống "siêu ký hiệu" (métasémiotique) - biểu tượng - để nhằm đối thoại với thế giới tâm hồn của con người. Chúng trang bị cho con người những cảm xúc "đa nghĩa" nhất, những cốt lõi quy định diện mạo cụ thể của một văn hoá.
E. Cassirer, nhà triết học nổi tiếng người Đức, trong "Triết học các hình thái biểu tượng" đề nghị thay định nghĩa con người như một "động vật lý trí" bằng định nghĩa con người như một "động vật sản xuất  ra các hình thái biểu tượng". Ông cho rằng :
"Tư duy và hành vi "biểu tượng hoá" là đặc trưng tiêu biểu nhất của đời sống nhân loại và toàn bộ văn hoá nhân loại phát triển đều dựa vào những điều kiện này.... chúng ta nên định nghĩa con người là động vật biểu trưng (Animal Symbolicum)... chỉ có như thế, chúng ta mới có thể vạch ra chỗ độc đáo của con người, cũng mới có thể lý giải được con đường mới khai phóng cho con người - con đường hướng về văn hoá"(4).
Quá trình "biểu tượng hoá" chính là quá trình nội nhập (introjection) văn hoá vào đời sống linh trưởng, điều đó nói lên tính chất cách mạng của quá trình tiến hoá của bộ não người. Sự "biểu tượng hoá" đã tạo nên một chiều kích (dimention) mới vào cuộc sống của người vượn, một khi mọi sự vật qua lăng kính nhận thức, đều có sự biến hoá và có sự tiếp nhận những "ý nghĩa" mới thông qua các hệ thống biểu tượng.
Dựa vào năng lực "biểu tượng hoá" của con người và xem biểu tượng như là một hình thái biểu hiện ngôn ngữ đặc trưng của văn hoá. Toàn thư quốc tế về phát triển văn hoá (International thesaurus on cultural development) của UNESCO đã đưa ra định nghĩa văn hoá như sau:
"Văn hoá là tập hợp các hệ thống biểu tượng, nó quy định thế ứng xử của con người và làm cho một số đông người có thể giao tiếp với nhau, liên kết họ thành một cộng đồng riêng biệt"(5).
Trước đó C. Levy - Strauss cũng đưa ra một khái niệm tương tự như vậy.                 Ông viết :
"Mọi nền văn hoá đều có thể xem như một tập hợp các hệ thống biểu tượng, trong đó xếp hàng đầu là ngữ ngôn, các quy tắc hôn nhân, các quan hệ kinh tế, nghệ thuật, khoa học, tôn giáo (6).
Như vậy, sự tồn tại của văn hoá luôn được mặc định vào năng lực "biểu tượng hoá" của con người trong quá trình nhận thức và sáng tạo ra, bởi lẽ biểu tượng luôn hàm chứa trong nó những "giá trị", mà đằng sau mỗi giá trị thường ẩn dấu một "nhu cầu" nào đó của con người. Trong mọi nhu cầu của đời sống xã hội thì  "nhu cầu văn hoá" là nhu cầu cao nhất - nhu cầu sản xuất  và tiêu dùng các tác phẩm văn hoá (bao hàm cả tác phẩm nghệ thuật). Sự đa dạng của các loại hình văn hoá, biểu hiện tính phong phú và tính nhiều vẻ của thế giới biểu tượng.
 Tự điển Larousse cho rằng : "Biểu tượng là một dấu hiệu hình ảnh, bằng con vật sống động hay bằng đồ vật, nó biểu hiện một điều trừu tượng, nó là hình ảnh cụ thể của một sự vật hay một điều gì đó".
Trong Dịch thuyết cương lĩnh của Chu Hy, nhà triết học đời Tống cũng giải thích "Tương là lấy hình này để tỏ nghĩa kia" tức là dùng cái "có thể tri giác" để nói lên cái điều "khó có thể tri giác" được, hay dùng cái cụ thể để nói cái trừu tượng, dùng cái tĩnh để nói cái động, dùng cái hữu hình để nói cái vô hình v.v....
Đồ hình bát quái (8 quẻ) trong kinh Dịch là sự phô bày bằng hình ảnh cụ thể về một hiện trạng cuả thời gian. Đó là sự chuyển dịch của thời gian trong không gian. Mỗi quái là một tượng lớn, được cấu thành ở hai tượng nhỏ cơ bản. Một vạch liền (-) là tượng của nguyên lý Dương v.v..; một vạch đứt (- -) là tượng của nguyên lý Âm. Về mặt hàm nghĩa của ngôn ngữ tượng trưng còn cho phép đọc là: vạch liền tượng của giống đực, ánh sáng, mặt trời, đàn ông, sự sống, hạnh phúc v.v... vạch đứt là tượng giống cái, bóng tối, mặt trăng, đàn bà, sự chết, đau khổ v.v... Biểu tượng luôn mở rộng sự liên tưởng để trí tuệ có thể truy tìm, khám phá ra những ý nghĩa còn chìm khuất trong chiều sâu nhận thức của con người
Qua ví dụ trên đây ta thấy sự ra đời của biểu tượng gắn liền với sự thực hiện năng khiếu tinh thần đặc biệt chỉ có ở loài người - năng lực "biểu tượng hoá" và, biểu tượng được hiểu là một sự vật hiện tượng nào đó, nhờ thể hiện trong nó một nội dung cụ thể, cảm tính, mà hiện tượng này biểu hiện, trình ra những ý nghĩa, mang giá trị trừu xuất. Có thể nói biểu tượng chính là một dạng thức ký hiệu - ngôn ngữ văn hoá.
Biểu tượng là hình tượng được hiểu ở bình diện ký hiệu và là ký hiệu mang tính hàm nghĩa (đa nghĩa) của hình tượng. Như vậy mọi biểu tượng trước hết phải là hình tượng (ký hiệu biểu thị), và mọi hình tượng đều có thể trở thành biểu tượng nếu trong lòng của hình tượng có sự hàm nghĩa. Phạm trù biểu tượng nhằm chỉ cái phần mà hình tượng vượt khỏi chính nó, chỉ là sự hiện diện của một nghĩa nào đó. Biểu tượng tuy có sự tương hoà với hình tượng nhưng không đồng nhất hoàn toàn vào hình tượng. Có thể nói hình tượng là một "ký hiệu thông thường" còn biểu tượng lại là một loại "siêu ký hiệu"(métasémiotique). Hình tượng khách thể và nghĩa hàm là hai cực không tách rời nhau của một biểu tượng. Bởi lẽ, tách khỏi hình tượng thì nghĩa sẽ mất tính biểu hiện, mà tách khỏi nghĩa thì hình tượng sẽ bị phân rã không còn là hình tượng. Do vậy một hình tượng nghệ thuật nào đó chỉ dừng lại ở tính "đơn nghĩa", chưa vươn tới sự "hàm nghĩa" để trở thành một "biểu tượng", thì đó chỉ là một "hình tượng" nghèo nàn về nội dung, kém về tính thẩm mỹ.  Nó khó có thể gây xúc động trong lòng người cảm thụ và sẽ mai một, không tồn tại lâu dài với thời gian.
Nhưng biểu tượng được bộc lộ chính là ở đặc tính phân ly và liên kết giữa chúng. Khi có sự hội nhập vào biểu tượng thì hình tượng trở nên lung linh và trong suốt, ý nghĩa sẽ xuyên thấm qua nó, trở thành nghĩa hàm, có chiều sâu và có giá trị. Nghĩa của biểu tượng là cái không thể nhận thấy gián tiếp theo kiểu tư duy logich, và nắm bắt được nó bằng nỗ lực của lý trí. Mà cần có sự thâm nhập trực tiếp, để có thể "giải mã" bằng quá trình liên tưởng và bằng kinh nghiệm bản thân của người cảm thụ. Đó cũng là chỗ khác biệt căn bản của biểu tượng so với những hình tượng nghệ thuật đơn giản. Biểu tượng khác với một ký hiệu thông thường (hình tượng đơn giản) ở chỗ là một ký hiệu chỉ mang tính "đơn nghĩa", nó chỉ "đại diện" cho một đối tượng cụ thể, duy nhất, không thể khác được. Tính đa nghĩa sẽ có hại cho hoạt động chức năng của hình tượng nghệ thuật  đơn giản (ký hiệu biểu thị). Ngược lại với hình tượng đơn giản, biểu tượng luôn mang tính "đa nghĩa" và nó bao hàm rộng hơn cái ý nghĩa mà người ta gán cho nó. Điều đó không thể có được ở các dạng thức ký hiệu biểu thị. Bởi lẽ ở mỗi biểu tượng có một sức vang vọng cốt yếu và tự sinh. Cái "dư âm" đó thúc dục ta liên tưởng tiếp theo để tìm ra chuỗi "ý nghĩa" mới. Biểu tượng thực sự có tính cách tân. Nó không dừng lại ở chỗ tạo nên những dư âm vang vọng đơn thuần (sức liên tưởng) mà nó còn thúc đẩy sự biến đổi về chiều sâu của ý nghĩa. Thực chất của biểu tượng sẽ mất đi hoàn toàn nếu như khép lại viễn cảnh vô tận về tính "đa nghĩa" của nó, bằng sự giải thích theo lối "đơn nghĩa", tức là bằng sự giải thích cuối cùng cho một đối tượng.
C.G. Jung cho rằng : "Biểu tượng không phải là một phúng dụ, cũng chẳng phải là một ký hiệu đơn giản, mà đúng hơn là một hình ảnh thích hợp để chỉ ra đúng hơn cả cái bản chất, ta mơ hồ, nghi hoặc của tâm linh"(7).
Henry Corbin cũng nhận định về biểu tượng như sau :
     "Biểu tượng báo hiệu một bình diện ý thức khác với cái hiển nhiên lý tính; nó là "mật mã" của một bí ẩn, là cách duy nhất để nói ra được cái không thể nắm bắt bằng cách nào khác, nó không bao giờ có thể cắt nghĩa được một lần là xong mà cứ phải "giải mã" lại mãi, cũng giống như một bản nhạc không bao giờ chơi một lần là xong, mà đòi hỏi mỗi lần biểu diễn đều phải phát hiện ra cái mới" (8).
Tóm lại, sự thống nhất giữa hai bình diện của một tác phẩm nghệ thuật - hình tượng nghệ thuật và nghĩa hàm của nó - có thể hoặc là đương nhiên, sẽ dẫn đến sự hình thành biểu tượng (hoặc là ẩn kín, hoặc là bộc lộ). Ở mức giới hạn của quá trình sáng tạo nghệ thuật, mỗi yếu tố của hệ thống nghệ thuật như : ẩn dụ, phúng dụ, tỉ dụ, các chi tiết nghệ thuật, hình tượng nhân vật, ngôn từ, v.v... đều có thể trở thành biểu tượng. Song, quá trình "biểu tượng hoá" có thực hiện được hay không là còn tuỳ thuộc vào các điều kiện sau :
- Độ  đậm đặc mang tính khái quát cao trong tác phẩm nghệ thuật.
- Ý đồ của tác giả có muốn hướng tới sự "biểu tượng hoá" trong tác phẩm hay không.
- Văn cảnh tác phẩm, khi nghĩa hàm của các hình tượng tự bộc lộ, không theo ý định của tác giả (điều này còn bị quy định bởi lôgíc tâm lý của tuyến nhân vật và sự phát triển về mặt tình huống trong tác phẩm).
- Văn cảnh văn học - nghệ thuật được quy định bởi thời đại và văn hoá (tính lịch sử và tính nghệ thuật trong tác phẩm).
Ví dụ : Hình tượng nàng Mona Lisa với "nụ cười muôn thuở"  trong bức tranh La Joconde của Léonard de Vinci đã trở thành "biểu tượng" độc đáo trong hàng vạn hình tượng người đàn bà khác có trong nghệ thuật hội hoạ.
Có thể nói biểu tượng là một "hình ảnh tượng trưng" mang tính chất thông điệp được sử dụng trong tác phẩm nhằm chỉ ra một ý nghĩa nào đó, theo một quan hệ ước lệ giữa sự vật trong thông điệp và sự vật ngoài  nó.
Biểu tượng có hai mặt : "cái biểu đạt" và "cái được biểu đạt". Hai mặt này được kết hợp theo sự liên tưởng và theo một quan hệ ước lệ nào đó.
Biểu tượng bao giờ cũng có :
+ Tính chất biểu hiện một cái gì bằng sự vật có hình ảnh.
+ Đại diện cho một cái gì đó, nhằm gợi lên một cái gì theo liên tưởng.
+ Tính ước lệ.
+ Mã (ký hiệu)
+ Biểu hiện những giá trị mang tính nhân văn.
Về mặt chức năng, biểu tượng còn mang tính thay thế (vật môi giới). Biểu tượng không những "thay thế" cho các đối tượng hiện thực, mà còn thay thế tất cả các quá trình, cả hình tượng, ý niệm của con người. Chức năng thay thế là một trong những đặc điểm của biểu tượng. Bên cạnh đó, nó còn có những thuộc tính và chức năng khác như: chức năng giáo dục, liên kết, dự báo, giao tiếp, thông tin v.v...
Quá trình thay thế trong lĩnh vực nghệ thuật thường diễn ra một cách "ước lệ" và "ẩn dụ", để nói lên một giá trị, một tư tưởng nào đó của con người Cũng như hình tượng nghệ thuật, biểu tượng cũng mang tính khái quát cao về các hiện tượng của đời sống. Điều đó đã dẫn đến sự gần gũi với hình tượng nghệ thuật. Xét bên ngoài hình tượng nghệ thuật và biểu tượng ít có sự khác biệt. Nhưng chúng có một ranh giới hết sức quan trọng. Một bên là sự "điển hình hoá" còn một bên là"tượng trưng hoá".
Khi xác định sự khác biệt về mối liên hệ giữa hình tượng nghệ thuật và biểu tượng trong tác phẩm, cần nhấn mạnh bản chất hai mặt của biểu tượng. Một mặt nó vẫn giữ mối liên hệ với việc thể hiện tính hiện thực (tính hình tượng); mặt khác là nó mang "tính tượng trưng" biểu đạt về một giá trị, mang tính trừu tượng, phi hiện thực, khó cảm nhận được.  Hai quá trình này luôn mâu thuẫn và thống nhất với nhau.  Tính hai mặt của biểu tượng đã nói lên vai trò của tượng trưng trong nghệ thuật. Biểu tượng có thể đưa người đọc, người xem vào lĩnh vực "phi lý" đồng thời lại là phương tiện để khái quát về một giá trị, một ý nghĩa nào đó của hiện thực. Điều đó nói lên biểu tượng khi thì tách xa, khi thì xích lại gần với hình tượng nghệ thuật, nhiều khi nó lại có những nét và những thuộc tính của hình tượng nghệ thuật. Và, nếu lặp đi lặp lại nhiều lần, hình tượng nghệ thuật sẽ trở thành biểu tượng.
Biểu tượng không chỉ biểu thị một sự việc nó đã hoàn thành, mà còn biểu thị cái đang phát triển. Nó không chỉ biểu thị mặt bảo thủ, mà còn biểu thị mặt năng động của cuộc sống.
Ví dụ : "ngọn đuốc" tượng trưng cho sự khai sáng, tiến bộ; "cờ đỏ" tượng trưng cho cách mạng. Trong các tác phẩm nghệ thuật có giá trị và nổi tiếng, chúng ta thường hay gặp những biểu tượng biểu thị cho sự tiến bộ, phản kháng sự lạc hậu hoặc mang ý nghĩa khẳng định công lý và chủ nghĩa nhân đạo, trong đó tập trung những tình cảm và ước vọng cao cả.

No comments:

Post a Comment

Ghi rõ nguồn sachvn247.blogspot.com khi phát hành lại thông tin từ trang này
Copyright © 2011. sachvn247 - All Rights Reserved
Design by Namkna
Xem tốt nhất ở độ phân giải 1024 x 768 pixel