CON NGƯỜI CHỈ THỰC SỰ CHINH PHỤC ĐƯỢC THIÊN NHIÊN KHI BIẾT CÁCH TUÂN THỦ NÓ

Đặc điểm của TKQĐ tiến lên CNXH ở Việt Nam, thế nào là quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN?

| | 0 nhận xét
Đặc điểm của TKQĐ tiến lên CNXH ở Việt Nam, thế nào là quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN? Bỏ qua chế độ TBCN là bỏ qua những nội dung gì?

Trả lời:
- Đặc điểm của TKQĐ lên CNXH ở việt Nam
TKQĐ là một thời kỳ lịch sử, thời kỳ chuyển biến cách mạng mà bất cứ quốc gia nào đi lên CNXH đều phải trải qua.
Đặc điểm lớn nhất của TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam là từ điểm xuất phát thấp về kinh tế, từ sản xuất nhỏ là phổ biến đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Theo đó, trình độ lực lượng sản xuất còn thấp, kỹ thuật lạc hậu, lao động thủ công vẫn chiếm phần lớn, năng suất lao động thấp…
Tương ứng với trình độ phát triển của LLSX là nền kinh tế còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, chúng hoạt động theo pháp luật, đều là các bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Về mặt xã hội, còn tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội đã có sự thay đổi cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp là quan hệ đoàn kết hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mặt khác, nước ta còn phải chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, sự tác động của những tàn dư thực dân, phong kiến.
Mâu thuẫn cơ bản trong TKQĐ lên CNXH bỏ qua phát triển chế độ TBCN là mâu thuẫn giữa 2 con đường phát triển của cách mạng Việt Nam: Đi lên CNXH hay tự phát đi lên CNTB. Cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn này diễn ra trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống từ kinh tế đến chính trị, quân sự, văn hóa, ngoại giao…
Sau gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển. Tuy nhiên, khó khăn, thách thức còn nhiều, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại; tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, tệ tham nhũng, lãng phí…vẫn chưa được ngăn chặn có hiệu quả, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện “diễn biến hoà bình”…hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.
Để giải quyết những vấn đề trên đòi hỏi Đảng, Nhà nước, nhân dân ta phải phát huy cao độ tinh thần chủ động, sáng tạo, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ kinh tế - xã hội…đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công.
Thực chất quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam
Vận dụng quan điểm của Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, chúng ta thấy:
Một là, tên nước “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” có nghĩa là nước ta quyết tâm định hướng đi lên CNXH, chưa không có nghĩa là chế độ kinh tê – xã hội ở nước ta đã là chế độ XHCN.
Hai là, nước ta đang ở trong TKQĐ lên CNXH, mà thực chất của thời kỳ này là Nhà nước của giai cấp vô sản và nhân dân lao động tự đảm đương nhiệm vụ lịch sử phát triển sức sản xuất của lao động, tự tạo lập những điều kiện vật chất của sản xuất và những quan hệ xã hội tương ứng với những điều kiện vật chất làm cơ sở hiện thực cho CNXH – một nhiệm vụ mà đáng lẽ giai cấp tư sản phải đảm đương nếu đất nước trải qua chế độ TBCN. Do đó, nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua phát triển chế độ TBCN là con đường phát triển “rút ngắn” lên CNXH.
 Về chính trị, bỏ qua chế độ TBCN là bỏ qua việc xác lập sự thống trị của giai cấp tư sản,c ủa kiến trúc thượng tầng TBCN. Về kinh tế, bỏ qua chế độ TBCN là bỏ qua sự thống trị của QHSX, nhưng phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Như vậy, chúng ta bỏ qua chế độ TBCN với tư cách là một hình thái kinh tế - xã hội, chứ không phải bỏ qua tính quy luật của quá trình phát triển LLSX, xã hội hoá lao động; là quá trình phát triển “rút ngắn” chứ không phải là “đốt cháy” giai đoạn; là quá trình phát triển có kế thừa, chọn lọc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại đã đạt được dưới CNTB, đặc biệt là khoa học công nghệ, khoa học quản lý…để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế quốc dân hiện đại, nhằm rút ngắn thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
Ba là, chúng ta không thể nóng vội tiến ngay lên CNXH được, mà còn phải duy trì và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong một thời gian tương đối dài. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Tiến lên CNXH, không thể một sớm, một chiều. Đó là cả một công tác tổ chức và giáo dục; CNXH không thể làm mau được mà phải làm dần dần.
Nhận thức đúng đắn vấn đề này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng. Một mặt, giúp chúng ta khắc phục được tư tưởng giản đơn, duy ý chí, nóng vội, đốt cháy giai đoạn. Mặt khác, quá trình tiến hành phải thực hiện đồng bộ các biện pháp như: sử dụng nhiều hình thức kinh tế quá độ, trung gian, phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế…Quan trọng hơn, sự rút ngắn này chỉ có thể thực hiện được thông qua xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân dựa vào khối liên minh công - nông - tri thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Chúng ta tin tưởng rằng Đảng ta sẽ vạch ra chiến lược phát triển KTXH, phát triển khoa học kỹ thuật mà nhân tố trọng tâm là chiến lược con người một cách đúng đắn, pphuf hợp với thực tiễn nước ta, tuân thủ nghiêm ngặt quy luật khách quan của sự vận động và phát triển xã hội, tiến hành cuộc đấu tranh lâu dài, bền bỉ nhất định hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của thời kỳ quá độ, xây dựng thành công CNXH, đem lại phồn vinh cho đất nước, ấm no hạnh phúc cho nhân dân.

No comments:

Post a Comment

Ghi rõ nguồn sachvn247.blogspot.com khi phát hành lại thông tin từ trang này
Copyright © 2011. sachvn247 - All Rights Reserved
Design by Namkna
Xem tốt nhất ở độ phân giải 1024 x 768 pixel