Chủ nhiệm đề tài: Đặng Hồng Tư
Đơn vị thực hiện: Ban dân tộc và Tôn giáo tỉnh Cao Bằng
Thời gian thực hiện: 2003
I. MỤC TIÊU
Cao Bằng có 8 dân tộc chính, trong đó có 4 dân tộc sống tập
trung ở vùng cao, mỗi dân tộc có bản sắc riêng, phương thức canh tác, lối sống,
tập quán, tín ngưỡng, luật tục thể hiện thế giới vật chất và tinh thần của người
dân vùng cao được đúc kết từ khả năng thích nghi, qua những biến đổi và kinh
nghiệm thực tế cuộc sống. Trải qua quá trình lịch sử, tính chủ động cộng với sự
cần cù sáng tạo đã tạo nên sự đa dạng về cấu trúc kinh tế và được kết tinh
trong nền văn hoá của mỗi dân tộc. Tuy nhiên để hoà nhập với nhịp sống chung của
toàn vùng, các cộng đồng dân cư vùng cao cũng phải nâng cao điều kiện sống về vật
chất và tinh thần của con người bằng phát triển sản xuất, cải tiến quan hệ xã hội,
nâng cao chất lượng hoạt động văn hoá. Vì vậy Ban Dân tộc và Tôn giáo Cao Bằng
đã thực hiện đề tài với mục tiêu: Nghiên cứu, đánh giá đặc điểm sinh thái nhân
văn cộng đồng dân cư vùng cao tỉnh Cao Bằng, từ đó đề xuất một số chiến lược chủ
yếu phục vụ cho phát triển bền vững KT – XH, môi trường sinh thái nông thôn
vùng cao giai đoạn CNH – HĐH.
II. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Đặc điểm sinh thái tự nhiên Cao Bằng
Một trong những đặc điểm riêng của Cao Bằng là có tính đa dạng
về điều kiện sinh thái, mỗi vùng có những đặc điểm sinh thái khác nhau, có địa
hình bị chia cắt phức tạp với nhiều dãy núi xen kẽ nhau, phân tách bởi các
thung lũng hẹp. Trên vùng cao Cao Bằng phân bố nhiều hệ sinh thái khác nhau, tạo
điều kiện phát triển nguồn tài nguyên động thực vật đa dạng, là nguồn khai thác
tự nhiên của đồng bào vùng cao.
2. Đặc điểm nhân văn vùng cao Cao Bằng:
- Đặc điểm nhân văn các dân tộc vùng cao: Trong số các dân
tộc sinh sống ở Cao Bằng có 4 dân tộc sống tập chung chủ yếu ở vùng cao là
Mông, Dao, Lô Lô, Sán Chỉ cùng với sự phát triển của nền kinh tế, cộng đồng các
dân tộc vùng cao cũng phát triển, nhất là về số lượng. Mỗi dân tộc có bản sắc
riêng, một thiết chế xã hội cộng đồng được hình thành, tồn tại và phát triển đã
tạo nên những giá trị văn hoá, kiến thức và kinh nghiệm truyền thống phong phú.
Phương thức canh tác, lối sống, tập quán, tín ngưỡng, luật tục thể hiện thế giới
vật chất và tinh thần của người dân vùng cao được đúc kết từ khả năng thích
nghi qua những biến đổi và kinh nghiệm thực tế cuộc sống nhiều đời.
Các dân tộc Mông, Dao, Lô Lô, Sán Chỉ vùng cao đã chuyển
sang một loại hình kinh tế mới là kinh tế sản xuất, tức là tác động vào đối tượng
sản xuất để làm ra của cải vật chất nuôi sống con người, tuy nhiên trình độ
phát triển không đồng đều. Dân tộc Mông, Dao tương đối phát triển, biết làm lúa
nước từ lâu đời, cải tạo ruộng bậc thang để gieo trồng lúa nước, lúa nương. Dân
tộc Lô Lô, Sán Chỉ chủ yếu là canh tác nương rẫy dựa vào thiên nhiên và theo
phương thức chặt, đốt, chọc, trỉa.
- Đặc điểm tâm lý sản xuất, tâm lý tiêu dùng của cộng đồng
dân tộc mông, Dao, Lô Lô, Sán Chỉ: Các dân tộc vùng cao Mông, Dao, Lô Lô, Sán
Chỉ có những tâm lý truyền thống đặc thù, đặc biệt là tâm lý sản xuất, phân bố ở
vùng cao nên họ canh tác chủ yếu trên các nương rẫy, ruộng cũng có nhưng rất
ít, sản phẩm trên nương rẫy là các loại cây lương thực và thực phẩm thiết yếu
hàng ngày.
Về tâm lý tiêu dùng chợ vùng cao là tụ điểm văn hoá của đồng
bào các dân tộc, bà con vùng cao đến chợ chủ yếu là mua sắm những vật dụng,
hàng hoá cần thiết phục vụ cho cuộc sống hàng ngày, ngoài ra phiên chợ vùng cao
còn là nơi để gặp gỡ, giao lưu, thăm hỏi...
- Đặc điểm văn hoá tín ngưỡng và tôn giáo:
Đối với người Dao quan trọng nhất là nghi lễ đám cưới,
ngoài ra còn có lễ mừng thọ, nghi lễ tang ma, lễ cấp sắc... Cũng như nhiều dân
tộc khác đối với người Dao hướng nhà là một yếu tố quan trọng tác động đến tâm
lý của các thành viên sống trong gia đình. Người Dao có tín ngưỡng đa thần và mọi
lĩnh vực của đời sống cộng đồng chịu sự chi phối của những tín ngưỡng đó, người
Dao quan niệm rằng nơi cư trú bao giờ cũng có một vị thần cai quản mà cả làng
phải có trách nhiệm thực hiện những nghi thức cầu cúng và kiêng kỵ nhất định.
Dân tộc Mông cũng như các dân tộc khác, các nghi lễ truyền
thống có sự ảnh hưởng pha trộn những nét văn hoá của dân tộc khác. Làng người
Mông thường thờ thổ công, nơi thờ là một gốc cây to hoặc cạnh một tảng đá lớn,
nhưng không làm miếu thờ mà chỉ thắp hương vào ngày mùng 3 hoặc mùng 4 tết, khi
có đám ma, đám cưới trong làng.
ở người Lô Lô hình thức hôn nhân là một vợ một chồng. Mỗi bản
Lô Lô đều có một khu rừng cấm, nơi trú ngụ của thổ công vì thế họ kiêng chặt
cây, đốt rừng ở đây, hàng năm đồng bào làm lễ cúng thổ công cầu cho mùa màng tốt
tươi, chuột bọ không phá hại, cúng xong họ nghỉ làm việc trong ba ngày.
3. Mối quan hệ giữa sinh thái nhân văn với dân cư và các tác động
quan hệ tự nhiên, xã hội vùng cao Cao Bằng trong giai đoạn CNH – HĐH:
Nhìn chung cộng đồng các dân tộc MôngN, Dao, Lô Lô, Sán Chỉvốn
có truyền thống đoàn kết gắn bó, đùm bọc lẫn nhau, ý thức dân tộc rất rõ nét,
trung thực, thật thà và thường sống tập trung thành chòm xóm, bản làng hoặc
theo dòng họ và có sự đan xen giữa các dân tộc. Từ năm 1994 trở về trước đời sống
vật chất và tinh thần của đồng bào còn quá khó khăn, tỷ lệ đói nghèo cao, trình
độ dân trí thấp, phong tục tập quán lạc hậu, du canh, du cư, đốt rừng làm nương
rẫy diễn ra rất phức tạp... Trong những năm gần đây được sự quan tâm của Đảng,
Nhà nước và các cấp chính quyền, đời sống của đồng bào vùng cao đã được cải thiện
đáng kể cả về vật chất lẫn tinh thần.
4. Các giải pháp nâng cao sinh lực và trí lực của dân cư để từng
bước ổn định cuộc sống, nâng cao mức hưởng thụ về vật chất, tinh thần cho dân
cư vùng cao Cao Bằng:
Có chính sách đảm bảo cho con em các gia đình nghèo cũng có
điều kiện được học tập, ưu tiên đào tạo bồi dưỡng, sử dụng cán bộ dân tộc thiểu
số, cán bộ cơ sở, đặc biệt là những khu vực có vị trí quan trọng và nhạy cảm về
kinh tế, chính trị, vùng sâu, vùng xa. Sớm ban hành các cơ chế chính sách để
khuyến khích các địa phương, nhất là vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, trên cơ sở đầu tư hỗ trợ của Nhà nước, tự lực phấn đấu vươn lên thoát
khỏi đói nghèo một cách bền vững.
Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết tương trợ, cùng
phát triển giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc vùng cao phát triển.
Tôn trọng lợi ích truyền thống văn hoá, ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng và kinh
nghiệm dân gian của các dân tộc vùng cao để phát triển KT – XH. Các chính sách
KT – XH phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc
thiểu số ở vùng cao.
Tích cực củng cố, đổi mới, xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt
động của hệ thống chính trị cơ sở vùng cao, đây là vấn đề chiến lược có ý nghĩa
quyết định trong việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ CNH – HĐH ở vùng cao Cao Bằng.
Thường xuyên tuyên truyền gíao dục chính trị và truyền thống
cách mạng cho đồng bào dân tộc thiểu số, vận động đồng bào thực hiện tốt đường
lối chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước, tham gia bảo vệ chủ
quyền biên giới quốc gia.
No comments:
Post a Comment