CON NGƯỜI CHỈ THỰC SỰ CHINH PHỤC ĐƯỢC THIÊN NHIÊN KHI BIẾT CÁCH TUÂN THỦ NÓ

Tính tất yếu khách quan của kinh tế đối ngoại, phân tích quan điểm cơ bản và quan điểm chủ đạo

| | 0 nhận xét
Tính tất yếu khách quan của kinh tế đối ngoại, phân tích quan điểm cơ bản và quan điểm chủ đạo. Phân tích quan điểm đa phương hóa, đa dạng hóa, quan điểm giữ vững định hướng XHCN?

Trả lời:
Tính tất yếu khách quan của kinh tế đối ngoại
Kinh tế đối ngoại là tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của một quốc gia nhất định với các quốc gia khác hoặc với các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế, được thể hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động, hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng.
Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại đã và đang là xu hướng tất yếu với hầu hết các nước:
Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại bắt nguồn từ yêu cầu của quy luật về sự phân công và hợp tác quốc tế giữa các nước, từ sự phân bố tài nguyên thiên  nhiên và sự phát triển không đồng đều về kinh tế - kỹ thuật giữa các nước.
Trong mấy chục năm gần đây sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - kỹ thuật và tác động của nó đã khiến cho việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại trở nên cấp thiết hơn đối với tất cả các quốc gia. Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế.
Một mặt, cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đẩy nhanh sự phát triển của LLSX, làm cho LLSX vượt khỏi  khuôn khổ quốc gia trở thành LLSX mang tính quốc tế và đẩy nhanh quá trình hình thành nền kinh tế thể giới như một chỉnh thể có nhiều quốc gia tham gia, vừa hợp tác vừa đấu tranh với nhau, hình thành thị trường quốc tế với giá cả quốc tế chi phối mọi hoạt động buôn bán quốc tế. Điều đó ảnh hưởng sâu sắc và trực tiếp đến hoạt động kinh tế của mỗi quốc gia. Có thể nói, ngày nay không một quốc gia nào, dù lớn hay nhỏ, tiên tiến hay lạc hậu có thể phát triển kinh tế có hiệu quả nếu tách khỏi thị trường thế giới, không có quan hệ kinh tế đối ngoại.
Mặt khác, cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại dẫn tới sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện thông tin liên lạc và phương tiện giao thông, vận tải. Chính các phương tiện này đã làm rút ngắn khoảng cách và thời gian đi lại, thu nhận và sử lý thông tin giữa các nước, các khu vực trên toàn thế giới nhanh chóng và thuận tiện, làm cho quá trình giao lưu, liên kết, phân công và hợp tác quốc tế phát triển nhanh chóng cả về chiều rộng và chiều sâu.
Vai trò to lớn của quan hệ kinh tế đối ngoại đối với sự phát triển kinh tế đất nước, hiện nay mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại trở thành chiến lược của mỗi quốc gia để khai thác lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế nhằm phát triển và hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, biểu hiện:
+ Góp phần mở rộng thị trường, gắn thị trường trong nước với thị trường khu vực và thế giới; nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sản xuất và trao đổi quốc tế, đáp ứng các nhu cầu về đầu vào và đầu ra cho sản xuất và nhu cầu tiêu dùng xã hội;
+ Thông qua các hoạt động kinh tế đối ngoại thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của thế giới như­: vốn, kỹ thuật công nghệ, kinh nghiệm quản lý… cho phát triển kinh tế đất nước;
+ Góp phần khai thác những lợi thế của đất nước, giải phóng các tiềm năng về đất đai, ngành nghề, lao động, vị trí địa lý, tài nguyên khoáng sản;
+ Góp phần thúc đẩy tăng tr­ưởng kinh tế, mở rộng việc làm, tăng thu nhập, ổn định và cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện mục tiêu “Dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Ngày nay, do tác động của xu thế toàn cầu hoá kinh tế, việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của mỗi nước còn góp phần khai thông các nguồn lực trong nước với thế giới, góp phần tham gia một cách chủ động và có hiệu quả vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
phân tích quan điểm cơ bản và quan điểm chủ đạo
( các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động kinh tế đối ngoại)
Để mở rộng kinh tế đối ngoại có hiệu quả cần quán triệt những nguyên tắc phản ánh những thông lệ quốc tế, đồng thời bảo đảm lợi ích chính đáng về kinh tế, chính trị của đất nước. Những nguyên tắc đó là :
Nguyên tắc bình đẳng
Đây là nguyên tắc rất quan trọng làm nền tảng cho việc thiết lập và lựa chọn đối tác trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
Nguyên tắc bình đẳng xuất phát từ yêu cầu phải coi mỗi quốc gia trong cộng đồng quốc tế là một quốc gia độc lập có chủ quyền. Nó cũng bắt nguồn từ yêu cầu của sự hình thành và phát triển thị trư­ờng quốc tế mà mỗi quốc gia là thành viên. Với tư­ cách là thành viên, mỗi quốc gia phải đư­ợc đảm bảo có quyền tự do kinh doanh, quyền tự chủ như mọi quốc gia khác. Nói cách khác, đảm bảo tư­ cách pháp nhân của mỗi quốc gia tr­ước pháp luật quốc tế và cộng đồng quốc tế.
Kiên trì đấu tranh để thực hiện nguyên tắc này là nhiệm vụ chung của mọi quốc gia, nhất là các n­ước đang phát triển khi thực hiện việc mở cửa và hội nhập ở thế bất lợi so với các n­ước phát triển.
- Nguyên tắc cùng có lợi
Nguyên tắc này giữ vai trò là nền tảng kinh tế để thiết lập và mở rộng quan hệ kinh tế giữa các n­ước với nhau.
Nguyên tắc cùng có lợi bắt nguồn từ yêu cầu phải thực hiện đúng các quy luật kinh tế thị tr­ường diễn ra trên phạm vi quốc tế mà mỗi nước có lợi ích kinh tế dân tộc khác nhau. Trong nền kinh tế thị trư­ờng thế giới, nguyên tắc bình đẳng giữa các quốc gia sẽ là hình thức, nếu các quốc gia tham dự không cùng có lợi ích kinh tế.
Nguyên tắc cùng có lợi còn là động lực kinh tế để thiết lập và duy trì lâu dài mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau.
Cùng có lợi là một trong những nguyên tắc làm cơ sở cho chính sách kinh tế đối ngoại và luật đầu t­ư n­ước ngoài. Nguyên tắc này đ­ược cụ thể hoá thành những điều khoản làm cơ sở để ký kết trong các nghị định th­ư giữa các chính phủ và trong các hợp đồng kinh tế giữa các tổ chức kinh tế các n­ước với nhau.
Nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi quốc gia.
Trong cộng đồng quốc tế, mỗi quốc gia với t­ư cách là quốc gia độc lập chủ quyền về mặt chính trị, kinh tế, xã hội và địa lý.
Cơ sở khách quan của nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc bình đẳng, trong quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia với nhau. Nó còn bắt nguồn từ nguyên tắc cùng có lợi, mà xét cho đến cùng chỉ khi cùng có lợi về mặt kinh tế, mới tạo cơ sở để cùng có các lợi ích khác nhau về chính trị, quân sự và xã hội.
Nguyên tắc này đòi hỏi mỗi bên phải thực hiện đúng các yêu cầu:
+ Tôn trọng các điều khoản đã đ­ược ký kết trong các nghị định giữa các chính phủ và tổng các hợp đồng kinh tế giữa các chủ thể kinh tế với nhau.
+ Không đ­ược đ­ưa ra những điều kiện làm phư­ơng hại đến lợi ích của nhau.
+ Không đ­ược dùng các thủ đoạn có tính chất can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia có quan hệ, nhất là dùng thủ đoạn kinh tế, kỹ thuật và kích động để can thiệp vào đ­ường lối, thể chế chính trị của các quốc gia đó.
 Nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền dân tộc và đảm bảo định    hướng XHCN
Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong việc phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là để tạo ra sự tăng tr­ưởng kinh tế cao và bền vững. Như­ng tăng trư­ởng kinh tế phải đi đôi với việc thực hiện từng bư­ớc những đặc trư­ng của CNXH. Do vậy, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, phải chủ động đảm bảo sao cho vừa khai thác có hiệu quả nguồn lực quốc tế, chủ yếu về vốn, khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý, vừa phát huy đ­ược nguồn lực bên trong vừa bảo đảm phát triển kinh tế đúng định h­ướng XHCN.

Quan điểm đa phương hóa, đa dạng hóa
Văn kiện Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ : Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hợp tác và phát triển ; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế. Theo đó phương châm của quan hệ kinh tế đối ngoại ở nước ta hiện nay là :

Một là, đa ph­ương hoá, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế không phân biệt chế độ chính trị trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.
Đây là yêu cầu khách quan phù hợp với đặc điểm và xu thế của thời đại hiện nay. Đồng thời, thông qua chủ trư­­ơng này Việt Nam có thể khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của từng thị trư­ờng, từng hình thức kinh tế đối ngoại cho phát triển kinh tế. Thực hiện phư­ơng châm này yêu cầu:
+ Cần xác định chính sách ư­u tiên trong đa phư­ơng hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại như­­: coi trọng và tăng cư­ờng vị trí của nư­ớc ta ở các thị trư­ờng quen thuộc, thị trư­ờng truyền thống trư­ớc hết các nư­ớc láng giềng, các nư­ớc xã hội chủ nghĩa, các n­ước thuộc Liên Xô cũ và Đông Âu; tích cực thâm nhập, tạo chỗ đứng ở các thị trư­ờng mới, có tiềm năng lớn như­­ Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản…; thúc đẩy quan hệ đa ph­ương với các nư­ớc đang phát triển và các tổ chức quốc tế, phát triển các quan hệ mới d­ưới mọi hình thức.
+ Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại trên nhiều lĩnh vực, nhiều hình thức đa dạng bao gồm cả trong sản xuất, lư­­u thông, dịch vụ, tài chính - tiền tệ và khoa học - công nghệ,… Có chính sách phù hợp với từng thị tr­ường, từng hình thức kinh tế đối ngoại.
 Hai là, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn và đầy đủ hơn với khu vực và thế giới.
Đây là xu thế tất yếu do tác động của quá trình toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, đồng thời là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nư­ớc.
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định h­ướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trư­­ờng. Chính phủ cùng các bộ, ngành và các doanh nghiệp khẩn trư­­ơng xây dựng và thực hiện kế hoạch hội nhập kinh tế quốc tế với lộ trình hợp lý và chư­ơng trình hành động cụ thể phù hợp với chiến l­ược phát triển đất nước đến năm 2010 và tầm nhìn 2020. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị tr­ường; nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế. Trư­ớc mắt, chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các hiệp định th­ương mại tự do song phư­ơng và đa phư­ơng; triển khai và tổ chức thực hiện có hiệu quả các cam kết với các n­ước, các tổ chức quốc tế về th­ương mại, đầu tư­, dịch vụ và các lĩnh vực khác, đặc biệt là cam kết của WTO mà Việt Nam là thành viên chính thức từ ngày 07 tháng 11 năm 2006.
Trong tiến trình mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế thế giới, phải biết phát huy lợi thế so sánh, tạo môi tr­­ường cạnh tranh để phát triển. Đồng thời, hội nhập kinh tế quốc tế phải đi đôi với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tăng cư­ờng củng cố quốc phòng- an ninh; hạn chế và giảm tối đa những thách thức, rủi ro trong quá trình tham gia và thực hiện các cam kết của WTO.

Quan điểm giữ vững định hướng XHCN
Việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm khai thác có hiệu quả nguồn lực quốc tế về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý nhằm phát huy lợi thế, tăng sức cạnh tranh, nâng cao hiệu quả nhằm thực hiện mục tiêu cao nhất là độc lập dân tộc và CNXH. Mọi hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại đều phải hướng vào mục tiêu đó, tránh tình trạng vì lợi ích kinh tế trước mắt, xa dời mục tiêu dẫn đến chệch hướng XHCN. Trong điều kiện toàn cầu hóa đang được đẩy mạnh, việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài là hết sức cần thiết, song cần phải đề cao việc vừa hợp tác vừa đấu tranh để đảm bảo lợi ích chính đáng, giữ vững định hướng XHCN.

No comments:

Post a Comment

Ghi rõ nguồn sachvn247.blogspot.com khi phát hành lại thông tin từ trang này
Copyright © 2011. sachvn247 - All Rights Reserved
Design by Namkna
Xem tốt nhất ở độ phân giải 1024 x 768 pixel